Kỷ niệm Ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/6: Bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em

Chủ nhật - 30/05/2021 10:38 1.291 0
Ngày Quốc tế Thiếu nhi 01/6 là dịp đặc biệt để mọi người gợi nhớ lại tuổi thơ hồn nhiên của mình, thể hiện tình cảm của mình đối với trẻ nhỏ. Ngày Tết Thiếu nhi 01/6 cũng góp phần nhắc nhở các bậc phụ huynh và toàn xã hội về trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ những mầm non của đất nước. Bài viết giới thiệu các quy định của pháp luật Quốc tế, Việt Nam về quyền trẻ em; thực trạng thực hiện quyền trẻ em và một số giải pháp để thực hiện tốt quyền trẻ em, bảo vệ trẻ em hiện nay.
     1. Một số vấn đề về quyền trẻ em
     Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận sự yêu thương và chăm sóc của người lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Bao gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người, mọi gia đình dành cho trẻ em (1). Trẻ em phải được đảm bảo những nhu cầu căn bản như được ăn uống, được giáo dục trong hệ thống giáo dục phổ thông, được chăm sóc sức khỏe và được bảo vệ trước pháp luật về quyền liên quan đến thể chất, tinh thần và tình cảm. Có thể thấy, quyền trẻ em là quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
     Quyền trẻ em thuộc nhóm quyền con người dựa trên những đặc điểm chung về đối tượng dễ bị tổn thương hay dễ bị thiệt thòi (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật…). Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989 thì “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi”. Trẻ em cũng là một con người, là công dân của một quốc gia nên có đầy đủ các quyền cơ bản của con người nhưng còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý, trước cũng như sau khi ra đời. Pháp luật quốc tế hiện nay có khoảng hơn 80 văn kiện (Công ước, Tuyên ngôn, Chương trình…) trực tiếp hoặc liên quan đến việc bảo vệ quyền trẻ em. Có thể kể đến các văn kiện quốc tế như: Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924, là văn kiện quốc tế đầu tiên về quyền trẻ em được soạn thảo trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Tuyên ngôn xác định: Loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất. Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 đã đưa ra những nguyên tắc tiến bộ hơn với phương châm loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có, các quyền trẻ em được mở rộng hơn như: Trẻ em được thương yêu, hiểu biết; Được nuôi nấng, chữa bệnh thích đáng; Học tập không mất tiền; Vui chơi, giải trí; Có họ tên, có quốc tịch; Chăm sóc đặc biệt nếu có những nhược điểm về thể chất, tinh thần; Đào tạo để trở thành người có ích cho xã hội… Không phân biệt màu da, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc xã hội khi được hưởng các quyền trên. Tuyên ngôn chỉ mang tính khuyến nghị, không có tính bắt buộc về mặt pháp lý.
     Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là Công ước đầu tiên đề cập toàn diện các quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền được sống, được phát triển, được tham gia và được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới. Ngoài ra, còn có những Công ước, văn kiện quốc tế khác có những điều khoản liên quan đến quyền trẻ em, đảm bảo trẻ em không bị trấn áp, bóc lột mại dâm, mua bán, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Đối với Việt Nam, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được coi là một truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, trẻ em luôn là đối tượng nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước, gia đình và toàn xã hội. Điều này đã thể hiện bằng việc Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989.
     Hiến pháp 2013 là văn bản pháp lý cao nhất, là nền tảng để xây dựng các văn bản pháp luật về quyền trẻ em. Văn bản quy định cụ thể về quyền trẻ em hiện nay là Luật Trẻ em năm 2016. Trong Luật này, tại Điều 1 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Ngoài ra, còn những văn bản pháp luật khác có chứa đựng những quy định mang tính trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền trẻ em. Có thể thấy, quyền trẻ em được pháp luật Việt Nam ghi nhận trên các khía cạnh sau:
     Thứ nhất, về quyền sống: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”(2).  Điều 12, Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được đảm bảo tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”. Ngoài ra, nội dung của quyền này còn được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 33 Bộ Luật Dân sự năm 2015 “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
     Thứ hai, về quyền được khai sinh, quyền có quốc tịch: Đây là quyền dân sự cơ bản, quan trọng của con người có từ khi sinh ra. Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016 và Khoản 1 Điều 26 Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã quy định. Theo đó, mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được khai sinh. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân và là căn cứ khẳng định trẻ em sinh ra là công dân của quốc gia đó, là cơ sở để cá nhân được hưởng các quyền con người, quyền công dân của mình. Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch”(3).
     Thứ ba, về quyền được chăm sóc sức khỏe. Điều 14 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh”. Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 xác định trẻ em dưới 6 tuổi được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh. Điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn đề đảm bảo chăm sóc sức khỏe trẻ em.
     Thứ tư, về quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục: Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016 khẳng định “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện”. Bên cạnh gia đình, các cơ sở giáo dục cũng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Luật Giáo dục năm 2019 quy định “Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở” (4). Điều 16 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền và bình đẳng về cơ hội được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân”, quy định này thể hiện việc Nhà nước trao quyền học tập cho trẻ em và bảo đảm mọi trẻ em được bình đẳng trước các cơ hội hưởng quyền học tập dù hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau (5). Ngoài ra còn có những quyền khác như quyền vui chơi, giải trí; quyền có tài sản; quyền được sống chung với cha mẹ; quyền được bảo vệ; quyền được tham gia. 
     2. Thực trạng thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em
     Có thể nói, trong thế giới ngày nay, với sự phát triển ngày càng cao của xã hội, thì việc thực hiên quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong những năm qua, việc thực hiện quyền trẻ em nói chung và bảo vệ trẻ em nói riêng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành và đạt được nhiều kết quả quan trọng, bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, pháp luật về trẻ em, cơ chế bảo vệ trẻ em ngày càng được cơ bản hoàn thiện, phần lớn các cấp, các ngành và toàn xã hội đã quan tâm và nhận thức công tác bảo vệ trẻ em ngày một nâng cao, các quyền trẻ em đã được thực hiện tốt hơn, những vấn đề phát sinh về trẻ em đã được quan tâm giải quyết.
     Tuy nhiên, một số vấn đề về trẻ em vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp như: bạo lực, xâm hại tình dục, xâm hại trên môi trường mạng, tử vong do tai nạn thương tích, lạm dụng sức lao động trẻ em ở một số ngành nghề, lĩnh vực, suy dinh dưỡng trẻ em thể thấp còi, an toàn, vệ sinh trong trường học, trẻ em bỏ học, thiếu thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở cho trẻ em (6). Riêng năm 2018, cả nước xảy ra trên 1.500 vụ xâm hại trẻ em. Trong đó có hơn 1.200 vụ án xâm hại tình dục, chiếm 82% với trên 1.100 trẻ em bị xâm hại. Giao cấu, hiếp dâm, dâm ô, bạo hành là 4 hành vi phạm tội xảy ra nhiều nhất trong các vụ liên quan đến trẻ em và người chưa thành niên. Mỗi tháng, đường dây điện thoại hỗ trợ 111 nhận khoảng 200 cuộc gọi liên quan đến bạo lực trẻ em (7).
     Trẻ em cần được cảm thấy an toàn tại gia đình, trong nhà trường và cộng đồng của mình. Tuy nhiên, kỷ luật mang tính bạo lực vẫn còn phổ biến ở Việt Nam với 68,4% trẻ em trong độ tuổi 1-14 đã từng bị bạo hành bởi cha mẹ hoặc người chăm sóc trong gia đình. Trong nhiều gia đình, bạo lực được sử dụng làm phương tiện để thiết lập hệ thống phân cấp của nam giới và củng cố nam tính. Hành vi như vậy ảnh hưởng bởi khả năng tài chính, trình độ học vấn của cha mẹ và các vấn đề khác như lạm dụng rượu và ma túy. Do kỷ luật mang tính bạo lực vẫn là một tiêu chuẩn được xã hội chấp nhận, trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thương khi các em có hiểu biết hạn chế về quyền của mình nên không lên tiếng và tìm sự giúp đỡ khi bạo hành xảy ra. Tất cả trẻ em đều có quyền được bảo vệ khỏi bạo hành, bất kể bản chất hay mức độ nghiêm trọng của hành vi và mọi hình thức bạo hành đều có thể gây hại cho trẻ em, giảm lòng tự trọng, sự tôn trọng nhân phẩm và cản trở sự phát triển của trẻ (8).
     Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin cũng là một nguyên nhân làm cho quyền trẻ em bị xâm phạm. Trẻ em không được bảo vệ một cách tốt nhất trước những trang mạng có những nội dung đầy tính bạo lực, khiêu dâm. Trẻ khó nhận biết cũng như xử lý những tình huống mang tính dẫn dụ của những kẻ chuyên dụ dỗ trẻ em để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể thấy như việc gạ gẫm, dụ dỗ trẻ em phô bày thân thể trên mạng vì mục đích tình dục, nhiều trường hợp còn ghi hình phát tán trên mạng xã hội, ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý, nhân phẩm, danh dự, tính mạng, sức khỏe của trẻ em. Trước những phương thức, thủ đoạn xâm hại trẻ em xuất hiện trên mạng xã hội nên thấy cần thiết phải có những giải pháp phù hợp để ngăn chặn hành vi vi phạm quyền trẻ em cũng như bảo vệ trẻ em một cách hiệu quả. 
     Các vụ bạo hành, xâm hại tình dục xảy ra với mức độ hành vi ngày càng dã man, tinh vi hơn trong khi vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến những khó khăn trong việc xử lý đúng người, đúng tội. Bất cập hiện nay là những lỗ hổng luật pháp, chính sách khiến nhiều vụ xâm hại rơi vào bế tắc hoặc kết quả chưa thỏa đáng. Việc chưa có những quy định riêng về tố tụng hình sự đối với trẻ em và người chưa vị thành niên trong các vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục cũng khiến không ít nạn nhân chịu thiệt thòi. Qúa trình cách ly những nghi phạm bị tố cáo có hành vi xâm hại tình dục trẻ em vẫn còn hạn chế, dẫn đến một số nghi phạm, thậm chí bị cáo trong quá trình tòa đang xét xử vẫn ở ngoài xã hội nên có những nghi phạm còn quay trở lại đe dọa nạn nhân và gia đình nạn nhân. Công tác phối hợp tiếp nhận, xử lý thông tin giữa các cơ quan có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ trẻ em với các cơ quan tư pháp vẫn còn độ vênh. Tuy nhiên, bất cập lớn nhất lại là sự thiếu nguồn lực con người và tài chính cho công tác bảo vệ trẻ em tại các địa phương (9).
     Bên cạnh đó, có những tài khoản mạng xã hội thiết lập và đăng tải những video clip có nội dung không phù hợp và mang tính kích động, dụ dỗ trẻ em thực hiện những hành vi nguy hiểm đến tính mạng như hành vi tự hủy hoại bản thân, mê tín dị đoan, thử những trò chơi nguy hiểm. Theo số liệu thống kê từ Qũy Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), mỗi ngày có đến 720.000 hình ảnh liên quan đến lạm dụng trẻ em được đưa lên Internet (10). Các chuyên gia cho rằng, các hành vi xâm hại trẻ em trên môi trường không gian mạng thường có tác động mạnh hơn so với hành vi xâm hại ngoài đời thực. Bên cạnh tác động đến sức khỏe, còn ảnh hưởng đến tâm lý, nhân sinh quan, thậm chí trong một số trường hợp còn tạo sang chấn tâm lý. 
     Trong khi đó, công tác phòng, chống xâm hại trẻ em trên môi trường không gian mạng ở nước ta còn nhiều hạn chế vì thiếu và chưa đồng bộ. Quy định trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác phòng ngừa, tiếp nhận thông tin, can thiệp sớm, bảo vệ khẩn cấp, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em bị xâm hại, bóc lột, bị mua bán trên môi trường mạng còn chưa rõ ràng, cụ thể. Còn thiếu các văn bản quy định việc nhận dạng dẫn đến khó khăn trong quản lý đối tượng trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạng. Bên cạnh đó, vai trò, hiệu quả trong xử lý, can thiệp của cơ quan quản lý về truyền thông; cơ quan, tổ chức bảo vệ trẻ em; các cơ quan truyền thông; các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung chưa chú trọng triển khai các giải pháp công nghệ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng. Các doanh nghiệp trong nước hầu như chưa dán nhãn các nội dung dành cho trẻ em. Các gia đình cũng chưa thực sự quan tâm, chưa có giải pháp bảo vệ hoặc hướng, định hướng cho trẻ em các cách tiếp cận và sử dụng mạng internet một cách an toàn và hiệu quả.
     Theo số liệu từ Bộ Công an, trong 03 năm (2017-2019), lực lượng công an đã phát hiện và xử lý 156 vụ xâm hại trẻ em trên môi trường mạng, số lượng này chưa phản ánh thực sự bức tranh mà trẻ em bị lạm dụng, ảnh hưởng trên môi trường mạng (11).
     Hiện nay, trẻ em bước vào kỳ nghỉ hè nhưng lại trùng với thời điểm dịch Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp trong cả nước nên vấn đề phải đảm bảo cho trẻ em được an toàn trong dịp hè cũng như an toàn trong mùa dịch là trách nhiệm chung của gia đình và xã hội, mà trước hết là gia đình phải là “tấm lá chắn” tốt nhất để “bảo vệ kép” cho trẻ em trước những nguy cơ đe dọa từ việc xâm phạm đến quyền trẻ em cũng như bảo vệ trẻ em an toàn trước dịch bệnh. Hầu như tất cả thời gian hiện nay của trẻ em là ở nhà vì dịch bệnh nên các em không thể tham gia các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt thể chất ngoài trời hay đi tham quan, du lịch cùng với người thân nên thời gian ở nhà lại làm cho trẻ dễ tham gia các chương trình trên mạng. Vậy làm sao để trẻ em không mắc được chứng “nghiện” mạng xã hội, thiết bị công nghệ và tránh tiếp cận với những nội dung xấu, độc trên mạng xã hội?
    Khi truy cập vào các kênh, trang có các nội dung như trò chơi, thử thách đối với trẻ em trên mạng xã hội, chúng ta dễ dàng bắt gặp các chương trình không phù hợp với trẻ em đầy rẫy trên môi trường mạng. Các kênh này chủ yếu chạy theo trào lưu nhảm nhí, thậm chí phản cảm, câu view để kiếm tiền. Việc các em tò mò xem các clip này mà chưa phân biệt được đúng sai dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, đôi khi bắt chước theo rất nguy hiểm. Thông tin từ Cục trẻ em - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, mỗi tháng Cục tiếp nhận bình quân 12.000 thông tin phản ảnh qua Tổng đài bảo vệ trẻ em quốc gia 111, chủ yếu là thông tin tố cáo về bạo lực, xâm hại trẻ em, tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho trẻ em, chính sách luật pháp về trẻ em cho người dân, cho cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em. Chủ yếu cha mẹ chỉ phản ánh, bày tỏ quan điểm chứ chưa tố cáo mạnh mẽ với những bằng chứng về các kênh độc hại. Việc bảo vệ trẻ em trên mạng xã hội không chỉ dồn hết trách nhiệm cho cơ quan chức năng bởi không đủ nhân lực để thực hiện. Không ai khác, chính cha mẹ cần phải đồng hành với con mình một cách chặt chẽ, sâu sắc, để sớm phát hiện những nội dung xấu, độc, từ đó phản ảnh với cơ quan chức năng, yêu cầu gỡ bỏ các nội dung không phù hợp (12).
     Liên tục gần đây, cả nước liên tiếp xảy ra các trường hợp trẻ em bị đuối nước thương tâm hay gặp những trường hợp tai nạn thương tích như bỏng, giật điện, súc vật cắn, tai nạn giao thông, té ngã, nuốt dị vật, uống nhầm thuốc… do ở độ tuổi này trẻ em thường hiếu động, chưa ý thức được hết những nguy hiểm, có trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi chủ quan hay bất cẩn của ngưới lớn.
     3. Một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện tốt quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em
     Từ những thực trạng nêu trên về việc trẻ em không được thực hiện quyền và bảo vệ tốt trước những xâm hại từ bên ngoài, tác động xấu đến tính mạng, sức khỏe từ môi trường xung quanh, cần có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả trong đảm bảo thực hiện quyền và bảo vệ trẻ em trong thời gian tới, cụ thể như sau:
     Một là, chúng ta cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên thông và huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị để tiếp tục phổ biến các quy định về quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em trong Luật Trẻ em năm 2016 và các văn bản Luật khác có liên quan. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt về phòng ngừa xâm hại trẻ em. Tăng cường truyền thông về Đường dây nóng của Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111 để mọi trẻ em, cá nhân, cơ quan, tổ chức liên hệ miễn phí khi có nhu cầu tìm kiếm thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ, hành vi xâm hại trẻ em. Chủ động thông báo, phối hợp với Cục Trẻ em và Đường dây nóng trong việc tư ván, can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại. Thiết lập đầu mối tiếp nhận thông tin, thông báo, tố giác; xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ việc xâm hại trẻ em tại địa phương.
     Hai là, xử lý nghiêm các hành vi bạo lực và xâm hại đối với trẻ em. Đại dịch Covid-19 gây ra tổn thất nặng nề trên toàn thế giới. Những nỗ lực ngăn chặn vi-rút corona hết sức quan trọng tới sức khỏe của người dân trên toàn thế giới, tuy nhiên cũng khiến cho trẻ em và phụ nữ gia tăng nguy cơ bị bạo lực, như ngược đãi, bạo lực trên cơ sở giới và xâm hại tình dục. Một số báo cáo gần đây từ các quốc gia đang bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 hạn chế đi lại, cách ly xã hội và những biện pháp ngăn chặn dịch bệnh khác, đi kèm với áp lực kinh tế và xã hội tăng lên đối với các gia đình đang dẫn đến bạo lực tăng lên đối với phụ nữ và trẻ em gái. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, bạo lực gia đình tăng từ 30% đến 300%. Tại Việt Nam, với 21 triệu trẻ em không đến trường và bị cách ly thời gian qua thì hiện thực này tác động trực tiếp đến sự chăm sóc, bảo vệ và an toàn cho trẻ em (13).
     Vì vậy, Ủy ban nhân dân các cấp phải thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về trẻ em, thường xuyên rà soát, kiến nghị, hoàn thiện chính sách, pháp luật về trẻ em; đổi mới công tác tuyên truyền, ưu tiên thời điểm, thời lượng phát sóng các chương trình về chính sách, pháp luật liên quan đến quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra tình trạng trẻ em tử vong do tai nạn thương tích, vi phạm nghiêm trọng quyền trẻ em, bạo lực, xâm hại tình dục, trẻ em lang thang kiếm sống trên địa bàn hoặc không hỗ trợ, can thiệp, xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm quyền trẻ em.
     Xử lý nghiêm đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, kể cả cha mẹ, người chăm sóc trẻ em khi có hành vi vi phạm pháp luật về trẻ em, nhất là các hành vi xâm hại trẻ em, bao che, chậm trễ, cố tình kéo dài các vụ việc vi phạm quyền trẻ em với phương châm “đúng người, đúng việc, đúng thẩm quyền, đúng trách nhiệm”.
     Ba là, phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trực tiếp đôn đốc các bộ ngành, địa phương triển khai chính sách, pháp luật về trẻ em; tổ chức các hình thức phù hợp để lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em trong quá trình xây dựng và thực hiện chương trình, chính sách, pháp luật về trẻ em bảo đảm thực chất, hiệu quả.              Đồng thời xây dựng chương trình hành động quốc gia vì trẻ em; Chương trình phòng, chống và giảm thiểu lao động; triển khai các biện pháp phòng, chống tai nạn thương tích, giảm thiểu tình trạng trẻ em tử vong do đuối nước; chỉ đạo hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hoạt động hiệu quả, bảo đảm an toàn, thân thiện và phòng, chống xâm hại trẻ em; thường xuyên kiểm tra về trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em, chính sách pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em.
     Bộ Y tế triển khai chính sách giải pháp phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi, phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em vùng dân tộc thiểu số và miền núi; nghiên cứu ban hành tiêu chí tổn hại sức khỏe tâm thần đối với trẻ em mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỷ, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh phải điều trị dài ngày; xây dựng quy trình tiếp nhận và khám, chữa bệnh cho trẻ em bị bạo lực, xâm hại tình dục; chỉ đạo cơ quan giám định pháp y ưu tiên giám định đối với trẻ em là nạn nhân của các vụ xâm hại trẻ em (14).
     Bốn là, thực hiện phương pháp giáo dục tích cực: Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai chính sách, giải pháp giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số và miền núi; hướng dẫn việc thực hiện phương pháp giáo dục tích cực, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên của các cơ sở giáo dục; Đồng thời, triển khai có hiệu quả công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong hoạt động giáo dục, đặc biệt là giáo dục lối sống văn hóa, rèn luyện đạo đức cho học sinh và phòng, chống bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ em trong trường học; phổ biến, tuyên truyền về tác hại của ma túy, rượu bia, thuốc lá; phát hiện và ngăn chặn kịp thời việc học sinh sử dụng trái phép chất gây nghiện; giáo dục các kỹ năng sống.
     Thực hiện quyết liệt, cải thiện căn bản điều kiện vệ sinh, nước sạch, an toàn thực phẩm trong trường học; thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ trẻ em, phòng ngừa và xử lý kịp thời các vụ việc bạo lực, xâm hại tình dục, tai nạn, thương tích trẻ em trong trường học.
     Năm là, các giải pháp phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và địa phương như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống, cách ứng xử trong gia đình, trách nhiệm nêu gương của người lớn; giáo dục trẻ em gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Hướng dẫn gia đình các biện pháp khắc phục, phòng, chống tình trạng cha mẹ, người thân xâm hại tính mạng, sức khỏe, tinh thần, nhân phẩm của trẻ em; trang bị kiến thức, kỹ năng thực hiện trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em. Phòng ngừa bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em trong các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; ưu tiên xây dựng điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao cho trẻ em cấp xã, nhất là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
     Bộ Công an thường xuyên triển khai các biện pháp phòng, chống hành vi bạo lực, xâm hại tình dục, mua bán trẻ em, đặc biệt là mua bán trẻ sơ sinh. Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý các đối tượng có hành vi xâm hại trẻ em. Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai chính sách, giải pháp giảm thiểu tình trạng trẻ em bỏ học, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Triển khai có hiệu quả công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong hoạt động giáo dục, đặc biệt là giáo dục lối sống văn hóa, rèn luyện đạo đức cho học sinh và phòng, chống bạo lực học đường, xâm hại tình dục trẻ em trong trường học …
    Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tăng cường giám sát, phản biện việc thực hiện quyền trẻ em, giải quyết những vi phạm quyền trẻ em. Cùng với đó, tuyên truyền, giáo dục, vận động hội viên, đoàn viên và toàn xã hội tham gia thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em; tích cực tham gia phòng ngừa và hỗ trợ trẻ em, gia đình trẻ em là nạn nhân của các vụ việc bạo lực, xâm hại, tai nạn, thương tích. Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam và các tổ chức xã hội tham gia xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em; tiếp nhận, thu thập thông tin về các hành vi, vụ việc vi phạm quyền trẻ em, kịp thời chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền để can thiệp, xử lý theo quy định của pháp luật.
     Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, đầu tư cho trẻ em là con đường chắc chắn đưa đất nước phát triển. Quyền trẻ em được ghi nhận một cách tối đa và được thực hiện đầy đủ chính là cách thức để nước ta chung tay với thế giới xây dựng một thế giới tốt đẹp dành cho trẻ em./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1). Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924;
(2). Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959;
(3). Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989;
(4). Hiến pháp 2013;
(5). Bộ Luật Dân sự năm 2015;
(6). Luật Trẻ em năm 2016;
(7). Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009;
(8). Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;
(9). Luật Giáo dục năm 2019;
(10). Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em;
(11). Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em;
(12). Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới;
(13). Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 26/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em.
(14). Bài viết: “Nhận diện những bất cập trong công tác bảo vệ trẻ em”, https://vov.vn/xa-hoi/nhan-dien-nhung-bat-cap-trong-cong-tac-bao-ve-tre-em-915964.vov
1. Bảo Khánh, “Bảo vệ trẻ em trên không gian mạng trong dịp hè”, https://baodansinh.vn/bao-ve-tre-em-tren-khong-gian-mang-trong-dip-he-20210520064449826.htm.
2. Thạc sỹ Nguyễn Thị Yến (Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam hiện nay, https://phaply.net.vn/quyen-tre-em-trong-phap-luat-viet-nam-hien-nay/.
3. Chương trình: “Bảo vệ trẻ em khỏi bạo hành” - UNICEF phối hợp với các đối tác để ngăn ngừa và ứng phó đối với các hành vi bạo hành đối với trẻ em, https://www.unicef.org/vietnam/vi/b%E1%BA%A3o-v%E1%BB%87-tr%E1%BA%BB-em-kh%E1%BB%8Fi-b%E1%BA%A1o-h%C3%A0nh
4. Gia Linh, “Bảo vệ trẻ em trên môi trường không gian mạng internet”, http://consosukien.vn/ba-o-ve-tre-em-tren-moi-truo-ng-khong-gian-ma-ng-internet.htm
5. Bài viết: “Tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em”, https://www.yenbai.gov.vn/bao-ve-cham-soc-tre-em/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=804&l=Tinhoatdong&lv=11

Tác giả bài viết: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập70
  • Máy chủ tìm kiếm4
  • Khách viếng thăm66
  • Hôm nay7,653
  • Tháng hiện tại185,380
  • Tổng lượt truy cập9,147,742
gopyduthaovanban
tracuuquyche
tacuudetai
 
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây