Phê phán các quan điểm cho rằng Việt Nam vi phạm quyền con người, quyền công dân

Thứ tư - 15/09/2021 23:52 2.644 0
       
       Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được kế thừa, tôn trọng,  bảo đảm và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại.

       Tuy nhiên, trong những năm qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống Nhà nước ta trong các vụ bắt, xét xử những người vi phạm pháp luật; chúng tạo ra những tình huống, lợi dụng các tình huống xảy ra trong cuộc sống; trong công tác phòng, chống dịch civid-19 rồi tung lên các kênh thông tin trên mạng xã hội nhằm công kích lôi cuốn mọi người dân vào like, chia sẻ phát tán sai sự thật và cho rằng ở Việt Nam hiện nay vi phạm quyền con người, quyền công dân …với những âm mưu thủ đoạn của chúng nhằm mục đích xóa bỏ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Nhà nước.
      Trước những luận điệu sai trái trên thì mỗi người dân Việt Nam nhất là cán bộ, đảng viên cần phải nâng cao cảnh giác, tìm hiểu đầy đủ các quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp, pháp luật của nhà nước cũng như những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước nhằm đập tan mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch. Để đập tan những âm mưu, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch mỗi người dân, nhất là cán bộ đảng viên cần nắm rõ các luận cứ sau:
       1. Quyền con người, quyền công dân được quy định trong các Hiến pháp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
       Lịch sử dân tộc  Việt Nam đã chìm đắm trong hàng ngàn năm bị đô hộ của của chế độ phong kiến, thực dân, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, mạng sống của con người bị thế lực thống trị xem “như rơm, như cỏ”, vì vậy mà nhân dân ta đã không ngừng đấu tranh với mong muốn duy nhất là giải phóng con người thoát khỏi sự áp bức bóc lột bất công, để người dân có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chỉ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhân dân Việt Nam mới trở thành người chủ đất nước, mới có được quyền con người, trong đó quyền cơ bản nhất là được sống trong một nước độc lập, tự do, được làm chủ xã hội mới. Ngay trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình vào ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
       Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 được thông qua ngày 09/11/1946 với 7 chương và 70 Điều. Trong đó, chương “Quyền và nghĩa vụ của công dân” được xếp thứ 2 gồm 18 Điều. Lần đầu tiên trong lịch sử Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng dân tộc trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất. Ngoài ra, Hiến pháp cũng quy định đàn bà ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện, có quyền tự do ngôn luận, quyền tư hữu tài sản được bảo đảm,... Đặc biệt tại Điều 21 ghi nhận: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”. Hiến pháp năm 1946 đã tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một nước độc lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do, phụ nữ đã được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một công  dân, nêu tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các dân tộc.
       Trên cơ sở kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 được thông qua ngày 31/12/1959, bao gồm 10 chương 112 Điều, trong đó Quyền và Nghĩa vụ của công dân được quy định tại chương III, bao gồm 21 Điều. So với Hiến pháp 1946 thì Hiến pháp 1959 đã bổ sung những quy định mới về quyền con người như: Quyền khiếu nại tố cáo với cơ quan Nhà nước (Điều 29), Quyền làm việc (Điều 30), Quyền nghỉ ngơi (Điều 31). Bên cạnh quy định quyền, Hiến pháp 1959 cũng quy định cụ thể những nghĩa vụ cơ bản của công dân.
      Đến Hiến pháp 1980 Quy định ở các Điều luật ngày càng cụ thể hơn, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các quy định từ các bản Hiến pháp trước đó. Nếu như Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 6 đến Điều 9 trong đó có các nội dung là: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” thì đến Hiến pháp năm 1980, đối với Quyền bình đẳng nam, nữ (Điều 63), Hiến pháp bổ sung bốn điểm mới: 
       Một là, Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ để phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội;
       Hai là, Nhà nước cần hoạch định chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ; 
       Ba là, xã viên hợp tác xã cũng được hưởng phụ cấp sinh đẻ; 
      Bốn là, Nhà nước và xã hội phải chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, các nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi khác.
       Không chỉ là nội dung ngày càng hoàn thiện mà số lượng các điều khoản ở Hiến pháp 1980 cũng nhiều hơn so với bản Hiến pháp trước. Nếu trước đây, ở Hiến pháp năm 1946 chỉ có 18 Điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân thì ở Hiến pháp năm 1959 là 21 Điều và Hiến pháp năm 1980 là 29 Điều.
      Hoàn cảnh đất nước thay đổi, đang trên đà quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những quy định về vấn đề nhân quyền trong Hiến pháp 1980 đã không còn phù hợp nữa mà buộc phải thay đổi bằng một bản Hiến pháp mới phù hợp hơn với tình hình đất nước lúc bấy giờ - Hiến pháp 1992 ra đời .
       Có thể nói, những bản Hiến pháp càng về sau thì càng “ưu việt” hơn các bản Hiến pháp trước đó. Về hình thức thể hiện, các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 với kỹ thuật lập pháp chuẩn xác hơn. Lần đầu tiên, thuật ngữ “quyền con người” được thừa nhận trong Hiến pháp (ba bản Hiến pháp trước đồng nhất quyền con người với quyền công dân). Ngôn ngữ thể hiện chặt chẽ, phản ánh đúng hiện thực khách quan, bỏ đi một số câu chữ mang tính nhân văn nhưng không phù hợp với thực tiễn.
       Số lượng các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng có bước phát triển, không chỉ so với ba bản Hiến pháp trước mà còn so với Hiến pháp của các nước. Nếu Hiến pháp 1946 có 28 Điều về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1959 có 21 Điều, Hiến pháp 1980 có 28 Điều thì Hiến pháp 1992 có 34 Điều trên tổng 147 điều của toàn bộ Hiến pháp. Cũng chính vì việc tăng các Điều luật hơn so với các bản Hiến pháp trước đó mà quyền công dân ở Hiến pháp 1992 được mở rộng hơn so với 3 bản Hiến pháp trước.
        Cũng như các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 hay 1980, các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được bổ sung và cụ thể hóa hơn để đi đến hoàn thiện. Các quyền cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp năm 1980 đã được chỉnh lý lại cho phù hợp với điều kiện thực tế của thời kỳ của quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận quyền tư hữu như là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Việc xác định lại quyền tư hữu của công dân - một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là một nội dung căn bản nhất của bản Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và nhận thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những thành công trong việc ghi nhận về nhân quyền trong Hiến pháp Việt Nam.
      Đến Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định”[1].
     Bản Hiến pháp năm 2013 ra đời có 11 chương, 120 Điều được thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực ngày 01/01/2014. Trong đó, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương có số lượng Điều luật nhiều nhất, gồm 36 Điều (từ Điều 14 đến Điều 49). Quyền con người được quy định trong chương II của Hiến pháp năm 2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại chương V của Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện như: đưa vị trí chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân"  từ chương V trong Hiến pháp năm 1992 về chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí quan trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
       Thể chế hóa Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013 dành cả Chương II với 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nhiều văn bản pháp luật khác đều có những quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
       Như vậy, ngay trong Hiến pháp năm 1946 của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể hiện rõ về quyền con người, quyền công dân và các quyền đó tiếp tục được bổ sung và pháp triển trong các Hiến pháp tiếp theo năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đây chính là văn bản pháp lý cao nhất quy định về quyền con người và quyền công dân được xã hội thừa nhận và đánh giá cao nhất. Đây là cơ sở để đảm bảo quyền con người, quyền công dân mà không ai có thể phủ nhận được. Từ Hiến pháp năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền công dân luôn được đề cao và ngày một hoàn thiện để mỗi người dân/công dân Việt Nam được thụ hưởng trọn vẹn nhất những giá trị của chữ "quyền", phù hợp với xu thế thời đại.
       2. Trên thực tế, quyền con người và quyền công dân được thực hiện ngày càng tốt hơn.
      Và trên thực tế, kể từ khi thành lập nước đến nay, vấn đề quyền con người, quyền công dân luôn được Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ quan tâm, chú trọng, lan tỏa sâu rộng trong cuộc sống, được cụ thể hóa như sau:
      Sau Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách phải thực thi; trong đó, có nhiệm vụ xây dựng và ban hành Hiến pháp dân chủ để chế định quyền của nhân dân/công dân Việt Nam. Người đồng thời yêu cầu sớm tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; trong đó, các sắc lệnh về tổ chức Tổng tuyển cử: Sắc lệnh số 14-SL ngày 8/9/1945 quy định sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, quy định tất cả công dân trai gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi; Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 2/12/1945 bổ khuyết  Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51 nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử… được ban hành đã thể hiện rõ sự hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân của mỗi người dân/công dân tại nước Việt Nam độc lập.
       Sự nghiệp đổi mới với các bước đi đồng bộ trong sự kết hợp biện chứng giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phòng, đẩy mạnh đầu tư và phát triển văn hóa, giáo dục, quan hệ quốc tế,… đưa đến nhiều thành tựu về vật chất, tinh thần, đó là nguồn lực, điều kiện để chăm lo nhân quyền cho toàn dân với quyết tâm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
      Thời gian qua, dù phát triển kinh tế không đạt mục tiêu như kế hoạch đặt ra do ảnh hưởng đại dịch Covid-19 và tình hình thiên tai, bão lụt tại các địa phương  ở Việt Nam, quyền được sống, quyền ăn, mặc, ở, quyền tham gia các hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, tự do kinh doanh, quyền tự do ứng cử, quyền thể hiện quan điểm xã hội, quyền của mọi tầng lớp, thành phần, người dân vẫn luôn được bảo đảm. Từ một nước nghèo và lạc hậu, phải khắc phục hậu quả của chiến tranh, bị cấm vận trong nhiều năm, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã vượt mọi khó khăn và trở ngại, tự lực phát triển để trở thành một trong những nước đã thực hiện thành công trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, trở thành một nước đang phát triển với 70% dân số có cuộc sống ổn định. 
      Để bảo đảm cho mọi người Việt Nam được thụ hưởng đầy đủ quyền con người, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó nổi lên là các quyền về chính trị, dân sự. Đơn cử, Quốc hội khóa XIV thông qua nhiều văn bản luật mới, đồng thời sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật. Các luật này đều tuân thủ nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân,… trong đó nổi lên là Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An ninh mạng…
      Trong năm 2020, Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm ưu tiên nguồn lực hơn, đầu tư trọng tâm với mục tiêu giảm nghèo nhanh hơn. Những chương trình của Nhà nước cùng sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm giúp đỡ người nghèo với các hình thức khác nhau, đã đưa tới kết quả là tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm khoảng 1,43%/năm; hơn 650 xã, 1.200 thôn thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 170 nghìn ngôi nhà “Đại đoàn kết” được xây dựng; cùng với người dân tộc thiểu số và hộ nghèo được hưởng 100% bảo hiểm y tế (BHYT), 2.327.000 người thuộc hộ cận nghèo tham gia BHYT. Việc cải cách thủ tục, quy trình khám, chữa bệnh tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT trong tiếp cận các dịch vụ y tế cao, năm 2019 đã sử dụng khoảng 32.300 tỷ đồng chi sự nghiệp y tế (chiếm khoảng 35%) để hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách tham gia BHYT, góp phần để đến tháng 6-2020, BHYT đạt tỷ lệ bao phủ gần 89% dân số… 
      Đặc biệt từ đầu năm 2020 đến nay, việc Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam quyết tâm bằng mọi biện pháp bảo vệ tính mạng con người trước đại dịch Covid-19, chính là một sự khẳng định rõ ràng về  thành tựu, chủ trương nhất quán, toàn diện và đúng đắn này. Gói an sinh xã hội gần 62.000 tỷ đồng khắc phục hậu quả của đại dịch Covid-19, 11.500 tấn gạo hỗ trợ khẩn cấp và hàng nghìn tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương để cứu trợ đồng bào miền trung khắc phục hậu quả “lũ chồng lũ, bão chồng bão” là nỗ lực rất lớn, kịp thời, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tác động của đại dịch Covid-19 và bão lụt, giúp mọi người được hưởng quyền sống, quyền được chăm sóc y tế, quyền mưu sinh, và tiếp tục làm sáng tỏ tinh thần coi lợi ích nhân dân là mục tiêu hàng đầu.  Cả 3 đợt phòng, chống dịch Covid -19 kể từ thời điểm phát hiện ca mắc đầu tiên ngày 23/1/2020, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá như một "điểm sáng," "hình mẫu" về ứng phó hiệu quả với đại dịch. Chúng ta tự hào khi hai chữ Việt Nam được gắn liền với một điểm đến an toàn, điểm sáng về phòng, chống dịch COVID-19, cũng như phục hồi kinh tế, một dân tộc nhân văn và một đối tác tin cậy.
       Những tháng gần dây, đợt bùng phát đại dịch covid- 19 lần thứ tư đã quay trở lại Việt Nam với tính chất ngày càng gay go, phức tạp hơn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, an ninh, kinh tế, xã hội của đất nước. Đứng trước những khó khăn, phức tạp do đại dịch gây ra Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu tăng cường mọi nguồn lực, nhân lực cho công tác hồi sức cấp cứu không phân biệt công, tư đảm bảo trang thiết bị, y tế, đặc biệt là oxy và máy thở. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu lúc này là nhiệm vụ chống dịch. Tất cả vì ấm no, hạnh phúc, an toàn cho người dân.
       Hiện nay, hầu hết các tỉnh,  thành phố đang triển khai thực hiện gói an sinh theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ  các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch covid-19. Cùng với đó các địa phương cũng phát huy tinh thần trách nhiệm trong công tác hỗ trợ bà con trên địa bàn phù hợp với tình hình thực tế.
      Tất cả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không có ý nghĩa nào khác ngoài mục đích  chăm lo cuộc sống , tính mạng cho Người dân, các thành tựu đó là kết quả từ nỗ lực hành động vì nhân quyền, vì con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam, không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Trong sự phát triển của xã hội loài người, các dân tộc, các quốc gia phát triển không đồng đều và mỗi quốc gia, dân tộc đều có sự vận động, phát triển nội tại khác nhau, tạo nên sự khác biệt, đa dạng và phong phú trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo…Những yếu tố đó tạo nên sự khác biệt về con người và quyền con người, quyền công dân ở mỗi quốc gia, dân tộc, ở từng khu vực khác nhau trên thế giới. Trong từng thời đại, mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc quyền con người với những nội dung và khối lượng các quyền đều bị các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở từng quốc gia, dân tộc quyết định. Đồng thời, quyền con người, quyền công dân bao giờ và ở đâu cũng gắn bó với hệ thống pháp luật và những tập quán nhất định. Pháp luật và những tập quán đó lại có những tính chất và đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm về lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, tôn giáo, chế độ chính trị ở từng quốc gia dân tộc. Tất cả những cái đó tạo nên sự khác biệt về quyền con người trong quan niệm  cũng như trong thực tiễn đời sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó chính là giá trị phổ biến vừa mang tính đặc thù về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Do đó, không được một quốc gia, tổ chức, cá nhân nào có thể lấy quy chuẩn về quyền con người, quyền công dân của quốc gia này so sánh hay áp đặt lên quốc gia khác, hoặc phê phán vấn đề quyền con người trên quan điểm của cá nhân.

Tài liệu tham khảo:
  1. https://nhandan.vn/binh-luan-phe-phan/cac-thanh-tuu-nhan-quyen-cua-viet-nam-la-khong-the-phu-nhan-628161/.
  2. http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Trao-doi-nghiep-vu/Quyen-con-nguoi-trong-Hien-phap-Viet-Nam-2752/
  3. https://www.vietnamplus.vn/phe-phan-quan-diem-viet-nam-vi-pham-quyen-con-nguoi/234151.vnp
  4. Giáo trình trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính, phần Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, năm 2016.
  5. Phạm Văn Khánh, Luận án tiến sỹ, Tính phổ biến và tính đặc thù về quyền con người, năm 1995.
 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia, 2016, tr.85

Tác giả bài viết: Trần Thị Quỳnh

Nguồn tin: Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

thuocladientu
 
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập63
  • Máy chủ tìm kiếm50
  • Khách viếng thăm13
  • Hôm nay14,574
  • Tháng hiện tại230,213
  • Tổng lượt truy cập7,607,962
gopyduthaovanban
tracuuquyche
tacuudetai
 
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây