1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Phát huy chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Có thể nói rằng, cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự biểu đạt rõ nét nhất về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Ngay khi còn là một thanh niên yêu nước, tất cả những điều mà Người muốn, Người hiểu, đó là: tự do cho đồng bào và độc lập cho Tổ quốc. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc đi xa, Người mong muốn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[2]. Nhìn một cách tổng quát, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: nước độc lập, dân tự do, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Đó là khát vọng cháy bỏng trong tâm khảm của Người, truyền cảm hứng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, được hiện thực bằng việc xác định đường lối và thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi mới, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc gắn liền với tư tưởng của Người về cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, “trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới”; với tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Ngay sau khi giành được nền độc lập, Người đặt tên nước Việt Nam gắn với các cụm từ “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc” và trong lời dặn trước lúc đi xa Người mong muốn “tột bậc” về một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Tháng 9/1945, ngay sau khi nước nhà được độc lập, Người viết thư cho học sinh, sinh viên trong ngày khai trường năm học đầu của nước Việt Nam mới, trong đó có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[3]. Thể hiện ý chí và vai trò của tự lực, tự cường trong quan hệ quốc tế, Người dặn: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[4].
Tháng 5/1965, khi tròn 75 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động viết bản Di chúc, để lại những lời dặn tâm huyết nhất cho Đảng và nhân dân ta. Về khát vọng phát triển của dân tộc, Người viết: “…Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!” và đến ngày thắng lợi, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí và khát vọng phát triển đất nước gắn liền với tấm gương và sự nêu gương về trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minhkhi đã trở thành người lãnh đạo cao nhất đã nhấn mạnh đầy đủ, thẳng thắn nhất về mong muốn của mình khi trả lời các nhà báo: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”[5].
Toàn bộ cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ ý chí và khát vọng của Người cho độc lập dân tộc và phát triển. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”[6]. Trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phóng viên báo Granma (Cuba), vào ngày 14-7-1969, Người nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”.
Ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, hùng cường cho dân tộc và sự hy sinh, cống hiến trọn đời của Người cho niềm mong ước ấy là tấm gương mẫu mực về trách nhiệm của mỗi người Việt Nam trong bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là góp phần hiện thực hóa tư tưởng của Người trong công cuộc Đổi mới của Đảng và nhân dân ta hiện nay.
2. Vai trò của ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phức
Ý chí là khả năng vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích, là sức mạnh tinh thần to lớn, là động lực cổ vũ con người đứng lên, vượt qua những rào cản trên con đường phấn đấu để đạt được mục đích. Ý chí giúp con người phát huy được sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, đôi khi đến mức độ phi thường. Ý chí của một cộng đồng dân tộc dựa trên sự thống nhất về tư tưởng, có lợi ích chung, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong giành, bảo vệ nền độc lập cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước.
Khát vọng là những mong muốn tốt đẹp của con người với sự thôi thúc mạnh mẽ từ bên trong để đạt được những mong muốn ấy. Cũng như ý chí, khát vọng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người, gắn với mục đích sống, nuôi dưỡng những hoài bão lớn lao trong họ… Khát vọng chung của nhiều cá nhân trong xã hội tạo thành khát vọng xã hội và đến lượt nó, khi đã hình thành, vận động và phát triển, khát vọng xã hội có tác dụng lôi cuốn mọi cá nhân, vượt qua những chần chừ, dao động, tính toán thiệt hơn…, để tham gia thực hiện thành công khát vọng chung của xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc trước hết vào ý chí và khát vọng sống, tồn tại và phát triển của cộng đồng dân tộc, tự mình cố kết lại để bảo vệ mình trước sức mạnh của tự nhiên, của các thế lực bên ngoài muốn thôn tính, đô hộ, áp bức, đồng hóa dân tộc. Lịch sử đã chứng minh không hiếm dân tộc, nền văn minh trên thế giới bị đồng hóa, bị tiêu diệt trong quá trình biến thiên lâu dài của lịch sử, khi không có sự đoàn kết toàn dân tộc, thiếu ý chí, khát vọng độc lập, tự cường và phát triển.
Thực tế lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rất rõ vai trò của ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển. Hòn đá thề trên đỉnh núi Hy Cương, Phú Thọ nói lên ý chí, khát vọng độc lập của Vua Hùng và Thục Phán, về sự đoàn kết, thống nhất để chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đền nợ nước, trả thù nhà. Triệu Thị Trinh hùng hồn khẳng định: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người"…
Ý chí khát vọng độc lập, hùng cường của dân tộc Việt Nam đã thể hiện rất rõ trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Trong những khúc quanh của lịch sử, cộng đồng dân tộc đã sinh ra những vĩ nhân, nhìn xa, trông rộng, như Nguyễn Trường Tộ, Vũ Duy Thanh… với tư tưởng cải cách, đổi mới để phát triển, xây dựng đất nước độc lập, hùng cường trước hiểm họa xâm lược từ các nước tư bản phương Tây. Lịch sử lâu dài của dân tộc đã chứng tỏ, ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc là nguồn nội lực xã hội khổng lồ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu và bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước gần 40 năm qua một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của ý chí, khát vọng phát triển đất nước trong toàn dân tộc. Bài học kinh nghiệm quý giá nhất của công cuộc đổi mới là dựa vào sức dân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong chiến tranh cách mạng vào xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Kết quả của công cuộc đổi mới không chỉ thể hiện bằng những thành tựu về kinh tế, xã hội, mà còn là bài học về phát huy ý chí, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc, để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Nâng cao ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong đảng viên trong giai đoạn hiện nay
Trên cơ sở dự báo tình hình, xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu cụ thể, gắn với các dấu mốc lịch sử: kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Đại hội xác định đến năm 2025: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Thực hiện mục tiêu, tầm nhìn đó, chính là nhằm hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Đó là sự kết tinh của bản lĩnh chính trị trên cơ sở nhãn quan đúng đắn, có tinh thần chủ động và ý chí lớn lao để hành động một cách phù hợp nhằm đạt được mục tiêu. Trong đó, cần chú trọng một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục đi sâu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Cùng với việc tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, vấn đề đặt ra có tính chiến lược là đặc biệt nhấn mạnh đi sâu, hiểu kỹ, để suy nghĩ, làm theo, tạo cho mình phong cách, lối sống có ý chí, nghị lực, bản lĩnh thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh về phát triển đất nước trong suốt chặng đường lịch sử đầy bão táp, mỗi cá nhân sẽ tự xây dựng, bồi dưỡng, hình thành củng cố niềm tin vững chắc cho ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cho mình góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Chỉ có học tập, làm theo một cách tự nguyện, tự giác, chân thành, thực tâm với ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh trong mỗi cá nhân có kết quả, mới tạo sức mạnh vô song đưa đất nước ta đi nhanh, đi mạnh, đi vững chắc trong mỗi bước đường tới phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kiên quyết khắc phục lối học hình thức, bề ngoài, để có chứng chỉ bằng cấp…
Hai là, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng các quan hệ toàn cầu.
Mỗi đảng viền cần nhận thấy rằng Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tiến hành thắng lợi các cuộc cách mạng vĩ đại đều gắn với cách mạng thế giới. Nhưng cốt lõi, sức sống tư tưởng của Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn là “tự ta giải phóng cho ta”; là ý chí tự lực, tự cường; là không cầu viện, dựa dẫm vào bên ngoài mà tự lực cánh sinh là chính.
Ba là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, biến các mục tiêu thành hiện thực, nâng cao đời sống nhân dân.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng đều xác định những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể đưa nước ta tiến lên xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc; một Việt Nam hùng cường, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã luôn là khát vọng mãnh liệt của bao thế hệ lãnh đạo và người dân Việt Nam. Khát vọng ấy đã hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, hun đúc tinh thần đoàn kết và sưc smạnh của nhân dân toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong quá trình bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước.
Bốn là, chủ động trong học tập, nghiên cứu, phát huy sức mạnh thời đại, đây là nội lực là yếu tố quyết định, quan trọng.
Trong suốt quá trình phát triển của dân tộc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”[7] để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”[8]. Trước những thay đổi lớn của cục diện thế giới sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, tinh thần tự lực, tự cường của đất nước ta càng cần được thể hiện rõ ràng hơn. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh: “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”7; khát vọng không có gì quý hơn độc lập, tự do và ý chí phải tự lực cánh sinh, phải dựa vào sức mình là chính, nội lực là yếu tố có tính chất quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền vững, biến ngoại lực thành nội lực. Đảng ta xác định đường lối đổi mới đúng đắn, tìm cách đưa đất nước đi lên một cách phù hợp theo nguyên tắc: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”8.
Năm là, phát huy ý chí tự lực, tự cường là mỗi đảng viên phải được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cập việc xây dựng thực lực cách mạng Việt Nam tạo ra sức mạnh tổng hợp từ tất cả các nguồn lực, trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”9. Nhận thức đó đang biến thành hành động cách mạng, đang đi vào cuộc sống và đã đạt được những kết quả tích cực. Hiện nay, việc phát huy sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc cần chú trọng đổi mới về kinh tế từng bước với đổi mới chính trị; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh vững chắc trên cơ sở xây dựng, củng cố và phát triển thế trận lòng dân; thực thi chính sách đối ngoại đúng đắn trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia. Đồng thời, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế vì hòa bình, độc lập, phát triển, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo ra thế và lực từ nội tại của tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các ngành, các cấp, bồi đắp năng lực cạnh tranh quốc tế trong môi trường toàn cầu hóa. Chỉ có như thế, đất nước ta mới phát triển nhanh và bền vững trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức tự bảo vệ mình trước mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Bốn là, Mỗi đảng viên cần thực hiện “nói đi đôi với làm” để biến khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trở thành hiện thực.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ý chí quyết tâm của Người trong mọi công việc và Người đã truyền quyết tâm đó cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Người khẳng định: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”[9], “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[10], “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”[11]. Có quyết tâm chính trị cao, chưa đủ, mà cần phải đi liền với hành động. Người căn dặn: quyết tâm mười phần thì kế hoạch phải hai mươi phần, chớ đem chủ quan của mình áp vào bắt thực tế phải theo, như “đẽo chân cho vừa giày”. Có nghị quyết đúng là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Có quyết tâm cao cũng là cần nhưng chưa đủ. Điều cần và đủ là quyết tâm phải đi liền với chương trình, kế hoạch hành động thiết thực, tỉ mỉ, có tính khả thi, có tổ chức triển khai phù hợp, đáp ứng đủ các điều kiện thực tế, với sự đồng lòng, dốc sức của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đồng thời, phải quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”[12].
Khát vọng chỉ là khát vọng, nếu không có hành động cách mạng kiên quyết. Do vậy, điều cần nhất là nói phải đi đôi với làm thì khát vọng mới có khả năng biến thành hiện thực. Hiện thực khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân. Thành quả cách mạng thực tế trên từng lĩnh vực là thước đo chính xác nhất trong việc biến khát vọng phồn vinh, hạnh phúc thành hiện thực cho dân tộc. Tăng trưởng kinh tế là cực kỳ cần thiết, nhưng phải bảo đảm phát triển bền vững và phải dựa trên nền văn hóa dân tộc. Sự phồn vinh, hạnh phúc của cả dân tộc thể hiện ở những chỉ số tổng hợp: chủ quyền quốc gia ổn định, bình an, một xã hội lành mạnh, quan hệ quốc tế trong sáng, kết quả của quá trình phấn đấu thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trong đó, bảo đảm quốc phòng, an ninh được xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên để thực hiện hoài bão, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Thấm nhuần tinh thần trên, mỗi đảng viên cần phát huy cao độ ý thức, trách nhiệm, tinh thần cống hiến, lao động sáng tạo, phụng sự Tổ quốc, phụng sự dân tộc, phục vụ Nhân dân, ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục phát triển sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
[1] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 187
[2] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 624
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr. 35.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr. 147.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr.187.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.4, tr.240.
[7] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 617.
[8] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 617.
[9] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 03.
[10] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 534.
[11] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 154, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 131.
[12] Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 244.
Tác giả bài viết: Th.S Nguyễn Sỹ Tuấn
Nguồn tin: Trường Chính trị Bình Phước:
Ý kiến bạn đọc