VẬN DỤNG PHONG CÁCH TƯ DUY HỒ CHÍ MINH TRONG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Thứ ba - 27/05/2025 09:33 23 0
Giảng dạy lý luận chính trị là một trong những nhiệm vụ cốt lõi của các trường chính trị - nơi đào tạo đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị địa phương, những người trực tiếp thực thi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đổi mới toàn diện, yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị đặt ra ngày càng cao và cấp thiết. Trong quá trình đó, việc vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh đặc biệt về sự kết hợp giữa tư duy lý luận và tư duy thực tiễn là một giải pháp đúng đắn nhằm đổi mới toàn diện hoạt động giảng dạy lý luận chính trị, góp phần hình thành tư duy độc lập, biện chứng, sáng tạo cho đội ngũ giảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu

- Đặc điểm về phong cách tư duy Hồ Chí Minh:

Một là, Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Theo Hồ Chí Minh lý luận được hiểu là “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận, rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”; “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. “Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo ra cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch”. Để quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì trước hết cần khắc phục “bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông”. Quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng có nghĩa là góp phần khắc phục và ngăn ngừa bệnh giáo điều, sách vở cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Người không ngừng nâng cao trình độ lý luận, mở rộng sự hiểu biết của mình bằng những hệ thống lý luận. Từ lý luận phương Đông, Người đến với lý luận của các nhà tư tưởng tư sản phương Tây, rồi từ đó tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người cho rằng không có lý luận cách mạng thì không thể làm cách mạng thành công được.

Hai là, lý luận trong tư duy Hồ Chí Minh luôn luôn được diễn đạt một cách giản dị, dễ hiểu, cụ thể, thiết thực, hiệu quả, quần chúng.

Văn phong lý luận của Hồ Chí Minh chẳng những ngắn gọn, cô đọng, giản dị, dễ hiểu mà còn rất sinh động. Bút pháp của Người luôn luôn biến hóa, nhất quán mà thật đa dạng, đanh thép trong tố cáo, sôi nổi trong tranh luận, thiết tha trong kêu gọi, nhiệt thành trong đón tiếp, ân cần và bình dị trong giảng giải, thuyết phục…

Ba là, phong cách tư duy của Hồ Chí Minh còn là sự gắn bó giữa ý chí, tình cảm cách mạng với tri thức khoa học.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người giàu trí tuệ mà còn là một người có tình cảm, có ý chí, nghị lực phi thường. Ở Người, ý chí, tình cảm cách mạng và tri thức khoa học thống nhất trong tư duy, trong hành động và trong quá trình vạch ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tư duy Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố cảm xúc, tình cảm với yếu tố trí tuệ, tri thức, kinh nghiệm, trong đó, yếu tố tri thức, trí tuệ là quan trọng nhất.

Bốn là, tư duy Hồ Chí Minh rất linh hoạt, mềm dẻo, có lý có tình.

Đây là một đặc trưng rất riêng, nổi bật trong phong cách tư duy của Hồ Chí Minh. Đặc trưng này không những thể hiện tính khoa học mà được coi như một nghệ thuật lãnh đạo của Người với những chủ trương, sách lược mềm dẻo nhưng vẫn kiên định lập trường. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình đấu tranh, đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt, phù hợp yêu cầu của thực tiễn qua từng giai đoạn cách mạng.

Năm là, tư duy Hồ Chí Minh có tính dự báo.

Một trong những phẩm chất cơ bản không thể thiếu ở những nhà lãnh tụ, nhà lý luận cách mạng chuyên nghiệp đó là phải có một nhãn quan chính trị hết sức nhạy bén, biết nhìn xa trông rộng, hiểu được quy luật vận động của lịch sử, nắm bắt được xu thế phát triển của thời đại, dự kiến được bước đi của đất nước. Nhờ đó có thể đưa dân tộc vượt qua được khó khăn ở những thay đổi của lịch sử, đó chính là năng lực dự báo của tư duy.

- Nội dung phong cách tư duy Hồ Chí Minh:

Một là, Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo.

Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo được kết tinh trong lý luận soi đường giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Quá trình bôn ba 30 năm tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh luôn có tư duy cầu thị, gạn lọc để học hỏi và tiếp tục bồi đắp tư tưởng của riêng mình mà không bị đồng hóa, hay rập khuôn máy móc theo tư tưởng và phong cách phương Tây. Từ việc giữ vững vốn văn hóa đặc sắc của dân tộc, Người có tư duy độc lập trước những lối rẽ phức tạp của nhiều hệ tư tưởng để tiếp thu những giá trị tinh hoa thời đại, trong đó có sự kiện lịch sử khi Người bắt gặp lý luận của V.I. Lênin năm 1920. 

Với tư duy độc lập, tự chủ và bằng những cách thức tuyên truyền hết sức phong phú và đa dạng, gần gũi, dễ hiểu, Hồ Chí Minh từng bước truyền bá một cách có hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là bước ngoặt lịch sử đưa dân tộc thoát khỏi “tình hình đen tối như không có đường ra”, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng thời cũng khẳng định tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xác lập tư tưởng phát triển vì sự tự do của con người. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, nỗ lực thực hiện khát vọng cháy bỏng vì độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc. Người khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.Trên tinh thần tự chủ, sáng tạo, Người đã nâng tầm tư duy nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản, để khẳng định giá trị phổ quát cho toàn thể nhân loại là “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh không có nghĩa là rập khuôn, khép kín, tự huyễn hoặc mình, mà phải được đặt trên nền tảng khoa học, hiện đại, nhân văn, hấp thụ những cái mới, những giá trị tiến bộ của văn minh thế giới. Từ đó, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có yếu tố dân tộc, khoa học và đại chúng; đồng thời, cần phải lĩnh hội những cái hay, cái đẹp, chắt lọc cái tiến bộ cho phù hợp với Việt Nam.Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh đã soi sáng, dẫn dắt, đưa dân tộc Việt Nam đi đến bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc; mở ra một trang sử mới của dân tộc “đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc”, với đặc trưng lớn nhất là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 

Hai là, phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại.

Phong cách tư duy Hồ Chí Minh mang đậm tính khoa học, cách mạng và hiện đại chính là sự kết tinh của tư duy biện chứng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn liền với thực tiễn Việt Nam và xu thế tiến bộ của thời đại. Tư duy này xuất phát từ lòng yêu nước và mục đích tìm đường cứu nước, trong quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh. Người không tiếp thu một cách thụ động, không dừng lại ở sự vật, hiện tượng bề ngoài, mà phải đi sâu phân tích, so sánh, chắt lọc, lựa chọn, tổng hợp, rút ra những phán đoán, đi tới những kết luận mới, đề ra những luận điểm mới, kế thừa, vừa phát triển sáng tạo để tiếp tục vượt lên phía trước. Tư duy khoa học của Hồ Chí Minh thể hiện ở phương pháp nhận thức và hành động luôn xuất phát từ thực tế, phản ánh đúng quy luật khách quan. Người luôn tiếp cận các vấn đề chính trị – xã hội một cách logic, toàn diện, biện chứng, không phiến diện hay cảm tính. Tư duy ấy không dừng lại ở việc nắm bắt hiện tượng bề ngoài, mà luôn đi sâu vào bản chất, tìm ra căn nguyên của vấn đề để từ đó có hướng giải quyết phù hợp. Điển hình như trong hành trình tìm đường cứu nước, thay vì đi theo những con đường cũ như các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh đã dành nhiều năm bôn ba khắp năm châu để khảo nghiệm, nghiên cứu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, cuối cùng xác định rõ: chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác – Lênin mới là con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc Việt Nam.

Tính cách mạng trong tư duy Hồ Chí Minh thể hiện qua sự kiên định về lập trường, lý tưởng và hành động triệt để vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Người không chỉ nhận thức rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, mà còn luôn đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực áp bức, bóc lột. Tư duy ấy là động lực để Hồ Chí Minh quyết tâm lãnh đạo toàn dân tộc làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dù đứng trước muôn vàn khó khăn, Người vẫn nhất quán khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Điều đặc biệt ở tư duy cách mạng Hồ Chí Minh là luôn gắn giải phóng dân tộc với giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với hạnh phúc nhân dân, thể hiện chiều sâu nhân văn và lý tưởng cách mạng cao đẹp.

Tư duy hiện đại của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại, đồng thời biết chắt lọc, chọn lựa để phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngay từ đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp cận các tư tưởng dân chủ, nhân quyền, bình đẳng giới, tinh thần khai sáng phương Tây, nhưng không tuyệt đối hóa hay rập khuôn, mà vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, Người khéo léo trích dẫn những lời bất hủ từ Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để khẳng định chân lý khách quan về quyền con người, đồng thời mở rộng thành quyền dân tộc – một tư duy hiện đại, sắc sảo và có tầm chiến lược. Phong cách đổi mới, sáng tạo, hiện đại. Nhưng cũng phải thông thoáng, biết nhìn nhận, không cố chấp, bảo thủ. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Cuộc đời Người là một tấm gương tuyệt vời về đổi mới, có sức động viên, khích lệ, gợi mở sự đổi mới, sáng tạo cho mỗi chúng ta.

Ba là, phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.

Thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Hồ Chí Minh là luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, những “lẽ phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Phong cách này không chỉ thể hiện trình độ trí tuệ vượt bậc mà còn phản ánh tầm cao văn hóa và chiều sâu đạo đức của Người, là tấm gương lớn cho cán bộ, đảng viên và những người làm công tác lý luận, giáo dục chính trị học tập, noi theo.

Tư duy hài hòa của Hồ Chí Minh được thể hiện ở khả năng dung hòa giữa các yếu tố tưởng như đối lập: truyền thống và hiện đại, lý luận và thực tiễn, dân tộc và quốc tế, nguyên tắc và linh hoạt. Người từng nói: “Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”, điều đó cho thấy rõ tinh thần dung thông giữa học thuyết cách mạng với hiện thực sinh động. Tư duy uyển chuyển trong Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua cách tiếp cận, xử lý các vấn đề chính trị, xã hội một cách linh hoạt, mềm dẻo mà không mất đi nguyên tắc. Trong ngoại giao, Người vừa cương quyết bảo vệ độc lập dân tộc, vừa khéo léo tranh thủ sự đồng tình quốc tế; trong công tác cán bộ, Người nghiêm khắc với những sai phạm nhưng cũng bao dung, thuyết phục bằng giáo dục hơn là trừng phạt. Uyển chuyển trong tư duy Hồ Chí Minh không phải là thái độ thỏa hiệp hay ngả nghiêng trước áp lực, mà là sự thể hiện bản lĩnh trí tuệ, phương pháp ứng xử thấm đượm nhân văn và hiệu quả thuyết phục sâu sắc. Tư duy có lý có tình chính là điểm nổi bật làm nên sức hút và chiều sâu trong lập luận và hành động của Hồ Chí Minh. Khi phê bình, Hồ Chí Minh luôn đặt mình vào vị trí người khác để cảm thông, giáo dục chứ không lên án gay gắt. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ, Người luôn kết hợp lý lẽ thuyết phục với tình cảm chân thành, giản dị, gần gũi. Chính vì vậy, Người không chỉ chinh phục quần chúng bằng lý lẽ, mà còn lay động trái tim bằng tình cảm.

- Vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh trong giảng dạy lý luận chính trị ở các trường Chính trị hiện nay:

Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ khoa học, tinh thần nhân văn và phương pháp tiếp cận linh hoạt, thấm đượm chủ nghĩa nhân dân sâu sắc. Việc vận dụng phong cách tư duy ấy vào giảng dạy lý luận chính trị ở các trường Chính trị luôn là vấn đề quan trọng và cần thiết. Vừa kế thừa tinh thần của Người vừa góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo cán bộ đặt ra ngày càng cao trong xu thế mới, xu thế vươn mình phát triển cùng đất nước.

Trước hết, giảng viên lý luận chính trị cần thấm nhuần tinh thần tự chủ và sáng tạo trong tiếp cận nội dung và phương pháp giảng dạy. Thay vì đơn thuần truyền đạt giáo trình, giảng viên cần thể hiện rõ tư duy độc lập trong việc cập nhật, khai thác tài liệu mới, gắn lý luận với những vấn đề thực tiễn đang diễn ra mang tính thời sự của thế giới, trong nước và địa phương công tác: chuyển đổi số trong hệ thống chính trị, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, các biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước… Việc giảng dạy không còn dừng ở việc “dạy cái đã có” mà phải hướng tới “dạy cách tư duy, cách vận dụng”, giúp học viên hình thành năng lực phân tích, lập luận và vận dụng thực tiễn cơ quan công tác.

Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện bài giảng, giảng viên phải thể hiện tính khoa học, tư duy hệ thống, logic và chặt chẽ, đồng thời thể hiện tinh thần đổi mới, hiện đại bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phương pháp dạy học tích cực như tình huống, tranh biện, dự án học tập.

Phong cách tư duy Hồ Chí Minh luôn nhất quán tinh thần khoa học, tư duy biện chứng, logic, phản ánh đúng bản chất và quy luật khách quan của hiện thực. Trong hoạt động giảng dạy lý luận chính trị, điều này đòi hỏi giảng viên phải có tư duy hệ thống, hiểu rõ mối liên hệ giữa các phạm trù, nguyên lý, quy luật, biết liên hệ giữa lý luận gắn với thực tiễn. Không những thế, tư duy cách mạng trong phong cách Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự nhạy bén trước thời cuộc, dám đổi mới, dám hành động. Giảng viên cần xây dựng các chủ đề mở, đặt ra các vấn đề “nóng” đang thu hút sự quan tâm của xã hội để học viên suy nghĩ, phản biện, từ đó phát triển năng lực tư duy lý luận chính trị và vận dụng thực tiễn một cách thực chất. Giảng viên phải chủ động cải tiến phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ số vào trong giảng dạy, phát huy tối đa vai trò chủ thể, trung tâm của người học.

Vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh còn đòi hỏi giảng viên phải có kỹ năng, phương pháp mềm dẻo, ứng xử linh hoạt, biết kết hợp giữa lý và tình trong truyền đạt tri thức cũng như trong kỹ năng sư phạm. Tư duy lý luận phải gắn liền với tư duy cảm xúc và sự thấu hiểu con người. Khi đứng lớp, giảng viên không chỉ nói đúng, nói đủ mà cần nói có sức thuyết phục, có cảm xúc. Phong cách trình bày giản dị, dễ hiểu, đi thẳng vào vấn đề, có ví dụ cụ thể, có câu chuyện thực tiễn sinh động chính là phương thức truyền cảm hứng chính trị hiệu quả nhất, giúp học viên cảm thấy lý luận là thiết thực, gắn với thực tiễn chứ không phải là kiến thức hàn lâm xa rời thực tế. Bên cạnh đó, giảng viên cần phát huy tính chủ động của người học bằng cách tạo môi trường học tập thoải mái, cởi mở, nơi mọi ý kiến đều được lắng nghe và tranh luận trên tinh thần xây dựng. Điều này đòi hỏi người giảng viên không chỉ có kiến thức, mà còn phải có phong cách gần gũi, thái độ tôn trọng và khả năng dẫn dắt đối thoại một cách nhẹ nhàng và có chiều sâu. Khi học viên còn e ngại phát biểu hoặc khi có sự khác biệt trong quan điểm, giảng viên cần vận dụng tư duy uyển chuyển, thấu lý đạt tình để dẫn dắt, khơi mở, làm sáng rõ vấn đề hơn là sử dụng tư duy áp đặt. Vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh trong giảng dạy lý luận chính trị còn thể hiện ở khả năng “nói đi đôi với làm”, nghĩa là chính bản thân giảng viên phải là tấm gương về lập trường chính trị vững vàng, về đạo đức về tác phong và phong cách mẫu mực. Tư duy phải đi kèm hành động; lý luận phải gắn với thực tiễn; nói phải đi liền với làm.

Như vậy, trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục lý luận chính trị ở các trường Chính trị hiện nay, việc vận dụng phong cách tư duy Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong thực tiễn giảng dạy tại các trường Chính trị, việc vận dụng phong cách tư duy của Người cần được thể hiện xuyên suốt, tư duy lý luận cần gắn liền với thực tiễn, với nhu cầu học tập và rèn luyện. Giảng viên không chỉ là người truyền đạt tri thức, mà còn là người dẫn dắt, định hướng tư duy, kỹ năng cho người học vận dụng vào thực tiễn. Có thể khẳng định rằng, việc nâng cao năng lực tư duy của giảng viên lý luận chính trị theo tinh thần phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một yêu cầu cấp thiết, đồng thời là một giải pháp bền vững để nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị ở các trường Chính trị hiện nay./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Ban Tuyên giáo Trung ương. Tài liệu bồi dưỡng cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, các năm 2016–2024.

2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2022.

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2022.

4. Trần Văn Phòng (Chủ biên). Phong cách Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019.

5. Nguyễn Duy Bắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo cán bộ. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2015.

6. Đặng Quốc Bảo. Giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn mới: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6/2022.

7. Trần Hữu Nghĩa. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị theo tinh thần tư duy Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục lý luận, số 10/2023.

Tác giả bài viết: Th.s Nguyễn Kim Dự

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập33
  • Thành viên online1
  • Máy chủ tìm kiếm8
  • Khách viếng thăm24
  • Hôm nay3,706
  • Tháng hiện tại23,796
  • Tổng lượt truy cập10,343,172
gopyduthaovanban
tracuuquyche
tacuudetai
 
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây