Tại kỳ họp lần thứ 24 năm 1987, tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” 1
Giá trị văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
Một là, Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Là Danh nhân văn hóa kiệt xuất của thế giới, Người đã có những đóng quan trọng trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, để lại những di sản văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng, làm giàu thêm bản sắc dân tộc Việt Nam, cụ thể là:
Hai là, Hồ Chí Minh đã xây dựng và đưa ra lý luận chống chủ nghĩa thực dân, cổ vũ các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, giành độc lập dân tộc để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mỗi dân tộc, giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng người lao động. Đây là sự nghiệp chính trị phi thường chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, nhân đạo, nhân văn. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành lại nền độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh bắt tay vào thực hiện các nhiệm vụ cách mạng mà trước hết chủ trương chống giặc đói, giặc dốt; xem dốt nát là một thứ giặc; bảo thủ, trì trệ, lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục dân chúng, phải làm cho dân tộc ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập.
Sau năm 1945 đất nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: giặc đói, giặc dốt hoành hành, trên 50% ruộng đất bị bỏ hoang, gần 2 triệu đồng bào bị chết đói. Để chống giặc đói, Hồ Chí Minh đã vận động toàn dân ra sức khai hoang tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Đây là việc làm cao cả mang ý nghĩa không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị nhân đạo, nhân văn, đáp ứng nguyện vọng no đủ của người lao động. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu nước nhà được độc lập mà dân phải đói, phải rét thì độc lập, tự do có ý nghĩa gì, dân chỉ biết đến giá trị của tự do độc lập khi dân được ăn no được mặc đủ. Đảng và Chính phủ phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Ba là, Hồ Chí Minh phát hiện ra văn hóa có sức mạnh phi vật thể, có tác dụng thúc đẩy làm phát triển xã hội con người theo hướng tiến bộ. Cho nên, Hồ Chí Minh đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước và con người Việt Nam.
Trên cơ sở phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Người phát động phong trào Đời sống mới, xây dựng và phát triển những thuần phong, mỹ tục mới trong nhân dân; mỗi ngành, mỗi giới đều có phong trào riêng của mình”. Người khẳng định “đời sống mới” là “không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, cái gì cũng phải làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ...Cái gì cũ mà không xấu, thì phải sửa đổi cho hợp lý…Cái gì cũ mà tốt, thì phát triển thêm...Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm” [2]. Bản chất xây dựng đời sống mới là chúng ta phải sửa đổi những công việc như: “sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” [3].
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có bắt đầu sửa đổi từ những nhu cầu cơ bản nhất của con người: ăn, mặc, ở, mới có thể thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đời sống mới với mục đích là làm cho đời sống nhân dân ta được đầy đủ hơn về vật chất và tinh thần. Nội dung xây dựng đời sống mới, theo Hồ Chí Minh gồm xây dựng con người mới và xây dựng xã hội mới toàn diện.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã có công đưa văn hóa thấm sâu vào quần chúng, chỉ ra cách thức lựa chọn và hưởng thụ các giá trị văn hóa, đổi mới nhận thức, đổi mới thói quen, cách nghĩ, thị hiếu, sở thích để cải tạo con người, xây dựng và phát huy nhân tố con người.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, trang bị thế giới quan, nhân sinh quan cho nhân dân Việt Nam, cho các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, chính trị, xây dựng ý thức chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức pháp luật, quan điểm về văn học nghệ thuật vị nhân sinh, ý thức thẩm mỹ và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh khơi dậy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, định hướng cho sự ra đời một xã hội mới nhân đạo. Theo Hồ Chí Minh, một xã hội nhân đạo được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Bốn là, Hồ Chí Minh sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Người đã tìm hiểu và tiếp thu các giá trị tốt đẹp của văn hóa phương Đông trong tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh cũng tiếp nhận các giá trị về tự do, bình đẳng, bác ái trong Tuyên ngôn nhân quyền và tuyên ngôn dân quyền của Pháp và Mỹ; tư tưởng dân chủ khai sáng của Vonte, Rút xô, Mongteskiơ. Với hành trang văn hóa truyền thống và sự nhạy bén về chính trị đã đưa Hồ Chí Minh đến với Sơ thảo “Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, đến với Đảng xã hội Pháp và Quốc tế Cộng sản, giúp cho Hồ Chí Minh tiếp thu trọn vẹn chủ nghĩa Mác-Lênin, đây là đỉnh cao trí tuệ và văn hóa của loài người, coi giải phóng toàn diện con người là mục tiêu cao nhất. Hồ Chí Minh có trí tuệ sắc sảo, thông minh tuyệt vời, trong hoàn cảnh không có điều kiện học tập, vừa lao động làm thuê kiếm sống, vừa học tập, nhưng Hồ Chí Minh đi đến đâu học đến đó, học đến đâu hiểu đến đó, không ngừng học tập để tiếp thu tri thức làm giàu trí tuệ cho bản thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ nhiều ngoại ngữ ở trình độ dịch thông, viết thạo, viết dưới dạng văn thơ. Hồ Chí Minh, viết văn, làm thơ không phải là để cho mình nổi danh, mà là để phục vụ cách mạng. Nét đặc sắc trong văn thơ của Hồ Chí Minh là nghệ thuật dùng cái tối thiểu của ngôn từ để diễn đạt cái tối đa của tư tưởng để biến thành hành động cách mạng có lợi cho dân cho nước, hay nói khác là dùng chữ ít nhất, ý nghĩa nhiều nhất để chuyển tải thông điệp, góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân tộc với những giá trị đặc sắc, in đậm dấu ấn Việt Nam.
Năm là, Hồ Chí Minh khoan dung, hòa nhập với văn hóa thế giới.
Bên cạnh việc khuyên nhủ đồng bào ta ra sức giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ra sức học tập tiếp tinh hoa văn hóa thế giới, những tiến bộ từ bên ngoài để xây dựng nền văn hóa Việt Nam cách mạng, khoa học và đại chúng để phát triển đất nước, Hồ Chí Minh còn là tấm gương sáng trong việc coi trọng mọi giá trị văn hóa nhân loại, tôn trọng và chấp nhận khác biệt trong đa dạng văn hóa và sự tự lựa chọn giá trị văn hóa của mình. Hồ Chí Minh là người phát hiện ra những giá trị nhân đạo của các tôn giáo, Người nói: Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là Bác ái; Phật Thích ca dạy: Đạo đức là Từ bi; Khổng Tử dạy: Đạo đức là Nhân nghĩa. Hồ Chí Minh là người Cộng sản đầu tiên đã tìm thấy sự tương đồng giữa các học thuyết Cách mạng và tôn giáo đều có một “mẫu số chung”, đó là: “Vì hạnh phúc của con người”, thông qua đoạn văn rất nổi tiếng sau: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là Sự tu dưỡng cá nhân. Tôn giáo của Chúa Giêsu có ưu điểm là Lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác-Lênin có ưu điểm của nó là Phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm về phương hướng chính sách phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những ưu điểm chung đó hay sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội… Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ; Tôi tin rằng, họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết” 4. Hồ Chí Minh đã tôn trọng đức tin của đồng bào theo các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Khẳng định lý tưởng cao đẹp và những giá trị nhân bản của các vị sáng lập ra các tôn giáo đó. Không bác bỏ tôn giáo, mà coi tôn giáo là một thành tố của văn hóa do con người sáng tạo ra vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ ra định hướng nhận thức và hành động cho các tôn giáo đồng hành cùng với dân tộc vì chủ nghĩa xã hội, vì mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực hiện giải phóng dân tộc trước giải phóng giai cấp sau, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Cùng với những tư tưởng, quan điểm, tác phẩm của Hồ Chí Minh để lại đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới và sự phát triển văn hóa thế giới mới. Những tư tưởng văn hóa ở nửa đầu thế kỷ XX, về: xoá mù chữ, trồng cây gây rừng, cải tạo môi trường, yêu thương người già, em nhỏ, người lao khổ, với những giá trị tư tưởng nhân văn này đã làm lay chuyển trái tim, khối óc và hành động của hàng triệu người dân trong nước và trên thế giới.
Sự vận dụng giá trị văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Một là, hiện nay, nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển của dân tộc. Đường lối chiến lược của Đảng là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, chủ động tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện nền kinh tế số, xã hội số. Để nắm lấy cơ hội phát triển, theo kịp xu thế phát triển của thời đại đòi hỏi mỗi cá nhân, tổ chức và toàn xã hội phải không ngừng nâng cao uy tín, bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, sẵng sàng thích ứng với những cú sốc từ bên ngoài. Do đó hàng trang văn hóa dân tộc, lòng yêu nước thương dân, đoàn kết, bất khuất tạo nên động lực, quyết tâm và bản lĩnh.
Hai là, Đảng ta chủ trương lấy xây dựng Đảng làm then chốt, xây dựng kinh tế làm trọng tâm, xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội. Văn hóa được xem là bệ phóng, giá đỡ cho sự phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, trong làm ăn kinh tế, quan hệ đối ngoại, nhiều nước trên thế giới đã nhận ra giá trị của mối quan hệ hợp tác với Việt Nam là lâu dài, tin cậy, chung thủy, sống nghĩa tình như: Nga, các nước thuộc Liên Xô cũ, Lào, CuBa...dù phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của thế giới và khu vực. Để văn hóa thực sự là động lực to lớn cho sự phát triển, chúng ta phải không ngừng làm cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tích cực, chủ động sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững của cả dân tộc.
Ba là, trong sản xuất, kinh doanh, trong làm ăn kinh tế, các chủ thể kinh tế cần phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa đạo đức, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, chịu trách nhiệm với sản phẩm sản xuất, kinh doanh của mình. Quảng cáo sản phẩm phải đúng, có cơ sở khoa học, không quảng cáo sai sự thật. Chủ thể sản xuất kinh doanh phải vì lợi ích của người tiêu dùng, không làm hàng giả, hàng kém chất lượng, không lạm dụng các chất độc hại, chất phụ gia, không làm những điều sai trái, nguy hiểm cho xã hội vì lợi nhuận.
Bốn là, trong công tác xã hội phải vì lợi ích số đông, vì sự phát triển tiến bộ của con người, phải làm cho văn hóa thấm sâu vào các mối quan hệ xã hội, từ quan hệ ứng xử giao tiếp đến chia sẻ, giúp đỡ, yêu thương giữa con người với con người, tất cả mọi hoạt động phải vì sự phát triển và tiến bộ xã hội, nhân đạo xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta phải ra sức chống quan liêu tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực, các phong tục, tập quán lạc hậu, bảo thủ trì trệ, cách sống vô cảm, thực dụng, lối sống không lành mạnh. Làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân để mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có ứng xử văn hóa đẹp, tích cực tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hóa, nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong mỗi con người Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Nghị quyết 24C/18.65 của UNESCO, Biên bản của Đại hội đồng Khóa họp 24 tại Pari, ngày 20-10 - 20-11-1987, do UNESCO xuất bản năm 1988. tr.144.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. CTQG, HN. 2011, tr. 112,113.
[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. CTQG, HN. 2011, tr. 113.
[4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.325-326.
Tác giả bài viết: Vũ Hữu Hải
Nguồn tin: Trường Chính trị tỉnh Bình Phước
Ý kiến bạn đọc