Những điểm mới về cán bộ, công chức trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019

Thứ sáu - 03/04/2020 23:40 2.795 0
Ngày 25/11/2019, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 14 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (sau đây gọi tắt là Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019), sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020. Sau đây là những điểm mới cơ bản của Luật về nhóm cán bộ, công chức.
1. Sự cần thiết phải xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 có liên quan đến cán bộ, công chức
Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức (sau đây viết tắt là Luật CBCC), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Luật Cán bộ, công chức đã tách bạch chế độ quản lý cán bộ, công chức và viên chức nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh cải cách chế độ công chức, công vụ, tạo điều kiện thu hút, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, phù hợp với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Cùng với những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện cho thấy sau 09 năm thực hiện Luật CBCC, đặc biệt là sau khi có Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và chủ trương của Đảng tại các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4, 5, 6, 7 và 8 khóa XII thì một số quy định của Luật CBCC đã bộc lộ những bất cập, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đồng bộ với các quy định mới, cụ thể như sau:
1.1. Về đối tượng là công chức
Luật CBCC hiện hành quy định công chức bao gồm cả những người làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập (sau đây viết tắt là đơn vị SNCL)[1]. Quy định này trên thực tế đã phát sinh một số vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt là sự không thống nhất trong việc thực hiện chế độ, chính sách và áp dụng cơ chế quản lý đối với đối tượng làm việc trong cùng một đơn vị. Đồng thời, việc quy định áp dụng Luật CBCC đối với người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp cũng không còn phù hợp với thực tiễn và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp[2]. Để tiếp tục thực hiện chủ trương “phân định rõ quản lý nhà nước với quản trị đơn vị SNCL” theo Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII thì cần thiết phải sửa đổi quy định về nhóm đối tượng là công chức trong Luật.
1.2. Về tuyển dụng công chức và liên thông trong công tác cán bộ
Quá trình tổng kết thi hành Luật CBCC cho thấy việc thực hiện các quy định về tuyển dụng công chức hiện nay vẫn chưa gắn thẩm quyền của người trực tiếp sử dụng với thẩm quyền quyết định tuyển dụng. Quy định tuyển dụng chưa có độ “mở” cần thiết để có thể lựa chọn được đúng người phù hợp với công việc, đặc biệt là để thu hút nhân tài, tạo cơ chế liên thông giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư. Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII cũng xác định chủ trương: “thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực”. Đây là phương thức mới, tác động đến quy trình, thủ tục tuyển dụng, cần nghiên cứu, thể chế hóa để làm căn cứ triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, mặc dù Luật CBCC và các văn bản có liên quan quy định chi tiết đã quy định về việc chuyển đổi vị trí công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị nhưng vẫn còn một số vướng mắc, bất cập khi thực hiện liên thông giữa các nhóm đối tượng là cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức cấp huyện trở lên; giữa viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập với cán bộ, công chức. Để giải quyết các vướng mắc, khó khăn nêu trên, đồng thời thể chế hóa nghị quyết của Đảng, đặc biệt là chủ trương liên thông trong công tác cán bộ thì cần thiết sửa đổi những nội dung liên quan đến tuyển dụng công chức và viên chức.
1.3. Về chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Quá trình thực hiện cho thấy các quy định hiện hành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Các quy định về thu hút nhân tài chủ yếu mới chỉ ưu tiên về tuyển dụng đầu vào mà chưa tạo cơ chế, môi trường làm việc độc lập, cạnh tranh, sáng tạo để người tài có điều kiện phát huy tài năng, sở trường trong công tác.
1.4. Về ngạch công chức
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 của Luật CBCC thì “Công chức có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để đảm nhận vị trí việc làm tương ứng với ngạch cao hơn thì được đăng ký dự thi nâng ngạch”. Tuy nhiên, việc thi nâng ngạch trong thời gian vừa qua chưa đáp ứng đúng mục đích, yêu cầu; việc bố trí, sử dụng người được nâng ngạch chưa căn cứ vào vị trí việc làm; chất lượng của các kỳ thi nâng ngạch còn nhiều bất cập. Đối với một số trường hợp có thành tích vượt trội trong công tác chưa có hình thức xét nâng ngạch (tương tự như xét thăng hạng đối với viên chức). Việc quy định phân loại ngạch công chức “cứng” trong dự thảo Luật sẽ ảnh hưởng đến triển khai thực hiện chủ trương “sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch công chức” và chủ trương “xây dựng 01 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức…  áp dụng chung đối với công chức… không giữ chức danh lãnh đạo” theo Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII.
1.5. Về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức
Việc thực hiện đánh giá, phân loại cán bộ, công chức trong thời gian vừa qua còn một số vướng mắc, cụ thể là:
i. Các quy định về đánh giá, phân loại còn thiếu sự gắn kết giữa các tiêu chí đánh giá, phân loại với kết quả thực hiện công việc theo vị trí việc làm; công tác đánh giá còn hình thức, “cào bằng”, chưa thực sự tạo động lực trong việc rèn luyện, phấn đấu, chưa tạo cơ sở để loại bỏ những người có năng lực yếu kém;
ii. Việc triển khai đánh giá, phân loại chưa phù hợp với đặc điểm của từng loại hình cơ quan, tổ chức, đơn vị và đặc thù công việc của từng ngành, nghề, lĩnh vực;
iii. Các quy định về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức còn có sự khác nhau giữa quy định của Đảng với quy định của Nhà nước[3].
1.6. Về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức
Luật CBCC hiện hành quy định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm đến khi phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật. Quy định thời hiệu như vậy là quá ngắn, không bảo đảm tính nghiêm khắc đối với việc xử lý cán bộ, công chức có hành vi vi phạm. Có trường hợp đã bị xử lý kỷ luật về Đảng (hoặc đã bị xử lý hình sự nhưng cho hưởng án treo) nhưng khi xem xét xử lý kỷ luật theo quy định của Luật thì đã hết thời hiệu. Mặt khác, quy định này cũng chưa thống nhất với quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật Đảng theo Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương. Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua, một số trường hợp cán bộ, công chức đã nghỉ hưu nhưng có hành vi vi phạm trong quá trình công tác đã bị xử lý kỷ luật về Đảng và chính quyền. Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ thì cũng cần sửa đổi, bổ sung các quy định tương ứng trong Luật.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên và để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thì việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CBC là cần thiết.
2. Những nội dung cơ bản của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 về nhóm cán bộ, công chức
2.1. Phạm vi điều chỉnh và bố cục của Luật
- Phạm vi điều chỉnh: Luật sửa đổi, bổ sung 28/86 điều của Luật Cán bộ, công chức.
- Bố cục của Luật: Gồm 03 điều. Điều 1 là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Điều 2 là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Viên chức năm 2012. Điều 3 là về hiệu lực thi hành.
2.2. Nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 có liên quan đến nhóm cán bộ, công chức
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (Điều 1) với 6 nội dung cụ thể, như sau:
Thứ nhất, về đối tượng là công chức và áp dụng quy định của Luật Cán bộ, công chức đối với các đối tượng khác:
- Không quy định công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập;
- Không quy định áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp nhà nước;
- Bổ sung và giao Chính phủ quy định cụ thể đối với cán bộ, công chức sau khi nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm trong thời gian công tác (áp dụng đối với cả người có hành vi vi phạm trước ngày 01/7/2020) thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, xóa tư cách chức vụ đã đảm nhiệm; gắn hệ quả pháp lý tương ứng với hình thức xử lý kỷ luật (khoản 5 Điều 84).
Thứ hai, về chính sách trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ: Giao Chính phủ quy định khung chính sách, trên cơ sở đó phân cấp cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý (Điều 6).
Thứ ba, về tuyển dụng công chức:
- Bổ sung đối tượng xét tuyển đối với người học theo chế độ cử tuyển, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc và nhà khoa học trẻ tài năng (ngoài đối tượng cam kết làm việc 05 năm trở lên ở vùng đặc biệt khó khăn) (khoản 2 Điều 37);
- Bổ sung và quy định rõ các đối tượng được tiếp nhận vào làm công chức từ cấp huyện trở lên đối với viên chức, cán bộ và công chức cấp xã, người hưởng lương trong lực lượng vũ trang, người làm công tác cơ yếu, người giữ chức vụ, chức danh lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước và người đã từng là cán bộ, công chức (khoản 3 Điều 37).
Thứ tư, về nâng ngạch công chức: Bổ sung quy định “xét nâng ngạch” đối với 02 trường hợp là (i) có thành tích xuất sắc trong hoạt động công vụ trong suốt thời gian giữ ngạch hiện giữ; (ii) được bổ nhiệm chức vụ gắn với yêu cầu của vị trí việc làm tương ứng với ngạch cao hơn ngạch hiện giữ.
Thứ năm, về đánh giá và xếp loại cán bộ, công chức:
- Sửa cụm từ “phân loại đánh giá” thành “xếp loại chất lượng” và bỏ cụm từ “nhưng còn hạn chế về năng lực” trong mức “hoàn thành nhiệm vụ” đối với cán bộ, công chức để thống nhất với các quy định của Đảng;
- Bổ sung nội dung đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phải gắn với vị trí việc làm thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; đối với công chức lãnh đạo, quản lý còn phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ và không cao hơn mức xếp loại của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách.
Thứ sáu, về kỷ luật cán bộ, công chức:
- Quy định 03 loại thời hiệu xử lý kỷ luật là 02 năm, 05 năm và các trường hợp không áp dụng thời hiệu;
- Nâng thời hạn xử lý kỷ luật lên 90 ngày và 150 ngày (quy định hiện hành là 60 ngày và 90 ngày);
- Quy định rõ việc bổ nhiệm khi bị kỷ luật (theo đó, không bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn trong thời hạn 12 tháng nếu bị kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương; không bổ nhiệm giữ chức vụ trong thời hạn 24 tháng nếu bị kỷ luật giáng chức, cách chức).
 
[1]. Xem thêm: Khoản 2 điều 4 và điểm c khoản 1 điều 32 của Luật Cán bộ, công chức 2008.
[2]. Khoản 3 điều 84 của Luật CBCC giao “Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý khác trong các doanh nghiệp nhà nước; những người được Nhà nước cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước.”.
[3]. Cụ thể là, còn có sự khác nhau giữa Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị với các quy định của pháp luật hiện hành về đánh giá, phân loại CBCCVC nói chung, theo đó:
+ Về mức đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW quy định phân loại đánh giá cán bộ theo mức hoàn thành nhiệm vụ, trong khi đó pháp luật hiện hành quy định hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực;
+ Về tiêu chí đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW bổ sung các tiêu chí đánh giá cụ thể đối với nhóm tiêu chí thực hiện chức trách, nhiệm vụ và quy định về tỷ lệ % hoàn thành nhiệm vụ được giao trong năm khác so với quy định của pháp luật hiện hành;
+ Về quy trình, phương pháp đánh giá: Quy định số 89-QĐ/TW bổ sung một số quy định về quy trình, phương pháp đánh giá mới như việc lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi cư trú, tập thể đồng cấp nhận xét, đánh giá

Tác giả bài viết: ThS. Lê Trọng Đức - Khoa NN và PL

Nguồn tin: Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

thuocladientu
 
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập17
  • Máy chủ tìm kiếm4
  • Khách viếng thăm13
  • Hôm nay13,596
  • Tháng hiện tại169,809
  • Tổng lượt truy cập7,547,558
gopyduthaovanban
tracuuquyche
tacuudetai
 
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây