Đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Viêt Nam trong thời kỳ đổi mới

Thứ năm - 14/11/2024 20:55 37 0
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta tư tưởng của Người đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, trong công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế gắn với đi đôi xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới việc xây dựng Đảng và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, có giá trị, ý nghĩa chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới xây dựng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng.

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của Đảng ta. Ngày nay, khi đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò lãnh đạo của Đảng không những không mất đi mà ngày càng được củng cố. Để thực hiện được vai trò của mình thì Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn, đó là vấn đề luôn mang tính cấp thiết và không bao giờ cũ đi trong mọi thời kỳ. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng, còn hoạt động thì còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. Vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng là vấn đề nhà nước, trong cách mạng vô sản, Đảng Cộng sản xác định nhiệm vụ trước hết là lãnh đạo quần chúng lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền, đưa Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền. Các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học đã xác định, giành lấy chính quyền về tay mình là nhiệm vụ vĩ đại của giai cấp công nhân. Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định đưa cách mạng tới thắng lợi. Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng giữ vai trò lãnh đạo chính quyền nhà nước, Mặt trận dân tộc thống nhất, các tổ chức quần chúng, các lĩnh vực đời sống xã hội thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng đất nước và quá độ từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhà nước là nhân tố bảo đảm nhà nước giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và là vấn đè cơ bản của Hiến pháp. Trong Lời nói đầu Hiến pháp năm 1959 do Người là Trưởng ban soạn thảo viết rõ: “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”[1]. Trở thành đảng cầm quyền có nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng bước sang thời kỳ mới với nhiều nhiệm vụ nặng nề và khó khăn, đặt ra yêu cầu vai trò lãnh đạo của Đảng phải toàn diện, tỉ mỉ, phải “đặt chính sách cho đúng”, phải thống nhất ý chí và hành động, cán bộ đảng viên phải chống thói “quan cách mạng”, chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Trong điều kiện đảng cầm quyền, cán bộ đảng viên của Đảng được giao những chức vụ trong bộ máy chính quyền, đoàn thể, phụ trách các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có chức, có quyền thì phải làm đúng nghị quyết, điều lệ Đảng, đúng hiến pháp, pháp luật, đồng thời phải phục tùng kỷ luật cơ quan, đoàn thể nơi mình đang công tác.

Đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn là trách nhiệm hết sức nặng nề, đòi hỏi Đảng phải nắm vững lý luận để vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo. Hồ Chí Minh đặt vấn đề và giải thích, lãnh đạo đúng nghĩa là “phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo cua ta”[2]. Hồ Chí Minh nói rõ tầm quan trọng và mối quan hệ hữu cơ giữa công tác kiểm tra với việc định hướng đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện. Người viết: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Theo Hồ Chí Minh, tiên phong, gương mẫu là một trong những yêu cầu tiêu chuẩn đảng viên, đồng thời thể hiện tinh thần tự nguyện hi sinh phấn đấu vì lý tưởng của Đảng. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc phải như vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền càng phải như vậy. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, để lãnh đạo được quần chúng, cán bộ đảng viên “phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, phải thực hiện lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau. Người nói rõ đó vừa là lời cá ngợi, đồng thời cũng là đòi hỏi của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên của Đảng.

Để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi đảng cộng sản cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh, bởi đảng và cách mạng luôn đứng trước những khó khăn, thử thách lớn. Cách mạng càng tiến lên, nhiệm vụ càng nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải tự đổi mới, tự rèn luyện, biết sửa lỗi mình. Người chỉ ra rằng, một đảng viên và mỗi con người ngày hôm qua là anh hùng vĩ đại nhưng không phải mãi mãi được quần chúng yêu mến, kính trọng nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” và Người khẳng định “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác – Lênin. Với ý nghĩa ấy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

      Người nhấn mạnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm đó là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[3]. Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc không phải dễ dàng. Đây là vấn đề khoa học và nghệ thuật cách mạng. “Phải tiến hành thường xuyên như rửa mặt hằng ngày: phải trung thực, chân thành, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm, phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Cán bộ, đảng viên phải luôn dùng và khéo dùng. Để thực hiện tốt nguyên tắc này mọi người cần phải trung thực, chân thành với nhau – với chính mình và với người khác. Người nhắc, tránh lợi dụng phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đã kích nhau…

      Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc xây dựng Đảng, đến việc xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Nếu trong Đảng không đoàn kết thống nhất thì tổ chức Đảng sẽ bị rệu rã, bị chia rẽ, bè phái, không khí sẽ bị u ám. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta, và của nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Cơ sở đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối quan điểm của Đảng. “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đang là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.

      Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người đã nêu những yêu cầu như: phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng chống mọi biểu hiện tiêu cực, tha hóa, biến chất của cán bộ đảng viên.

          Đảng ta là một bộ phận của hệ thống chính trị đồng thời có trách nhiệm lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị nên muốn đưa cách mạng tiến lên phải chăm lo xây dựng Đảng mạnh về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có tính chất quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp đổi mới của đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội do đó phụ thuộc trước hết vào đảng cầm quyền. Chính với ý nghĩa đó mà ta có thể nói rằng sự nghiệp đổi mới hãy bắt đầu từ bản thân Đảng. Với ý thức và trách nhiệm đó, trong những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nghiên cứu, tổng kết, từ những sang kiến của cơ sở, của đội ngũ cán bộ đảng viên, để khởi xướng công cuộc đổi mới. Vào đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta đã bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới của đất nước cũng như là công cuộc xây dưng đội ngũ cán bộ đảng viên trong sach và vững mạnh điều đó xuất phát từ chính yêu cầu của cuộc sống, của hoàn cảnh đất nước va từ tình hình quốc tế.

Kể từ Ðại hội VI năm 1986, đến nay đã qua 7 kỳ Ðại hội, Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội thể chế hóa trong Hiến pháp và trong các luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước.

          Đứng trước thời cơ và thách thức mới, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong công cuộc đổi mới hiện nay càng nặng nề hơn. Đảng phải vươn lên về mọi mặt trong những điều kiện mới diễn biến hết sức phức tạp. Khi phân tích tình hình cụ thể trong và ngoài nước Đảng ta nhận thấy được rằng ngoài những thuận lợi rất cơ bản thì còn có rất nhiều những khó khăn điều đó lại xuất phát một phần ngay từ trong chính hàng ngũ đảng viên, trong thời buổi kinh tế thị trường những lợi ích về vật chất đã làm cho một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ, đảng viên dễ dàng bị cám dỗ bởi những lợi ích vật chất, gây đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức và nối sống;hoàn cảnh mới dễ dàng mắc phải căn bệnh phát triển như cửa quyền, quan liêu, mất dân chủ, lãnh đạo nặng về áp đặt theo lối mệnh lệnh. Chính điều này đã làm giảm đi niềm tin của quần chúng nhân dân vào đội ngũ đảng viên. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng đặt cho Đảng nhiều vấn đề mới về cả lý luận lẫn thực tiễn cần có lời giải đáp.      Đứng trước những thử thách và khó khăn đó Đảng ta đã vận dụng một cách hiệu quả nhất những lý luận và quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ đảng, để từ đó xây dựng Đảng mạnh về cả chính trị, về tư tưởng, về tổ chức, về phẩm chất đạo đức của toàn Đảng, về những phương thức lãnh đạo trong thời kỳ mới. Điều này đã được thể hiện một cách rõ nét nhất qua các kỳ đại hội của Đảng ta.

          Biện pháp đấu tranh bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

      Đảng ta kiên định với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bên cạnh đó là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Để có thể nâng cao được bản lĩnh chính trị và trí tuệ trong Đảng với thời kỳ hiện nay thì phải nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới cần đề ra những giải pháp như sau:

      Thứ nhất, Đảng ta cần củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng lý luận. Tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là các cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn các công tác này với công tác tổ chức – cán bộ, với phát triển kinh tế, giải quyết hài hòa các lợi ích. Gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm chính. Đảng kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, kiên quyết chống lại các quan điểm sai trái, thù địch.

          Đảng đã nhận định rằng mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, làm tốt công tác giáo giục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực và hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức lối sống, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các chủ nghĩa cực đoan trong Đảng. Đồng thời Đảng từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng, thể chế hóa về mặt nhà nước vai trò, chức năng nhiệm vụ của các loại hình cơ sở, đặc biệt là các tổ chức cơ sở đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu vùng xa, tập trung giải quyết cơ sở yếu kém.

Xây dựng đội ngủ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức tốt đúng với lời căn dặn tâm huyết của Hồ Chí Minh “mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trước hết, phải cố gắng học tập chính trị, chuyên môn, gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, gương mẫu trước quần chúng”. Đội ngũ đảng viên phải có đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và hoàn thành nhiệm vụ, kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, người đảng viên luôn vững vàng trước mọi khó khăn thách thức góp phần vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để có thể xây dựng được một đội ngủ đảng viên như vậy, Đảng phải chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ bằng các công tác bồi dưỡng về kiến thức và trí tuệ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ và lãnh đạo. Đặc biệt là thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Để có được một đội ngũ đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên” thì Đảng phải thường xuyên sàng lọc đảng viên, phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát đảng viên, phát huy vai trò của quần chúng trong hoạt động giám sát, đóng góp ý kiến về đảng viên, kịp thời đưa ra khỏi đảng những người không đủ tư cách.

          Ba là, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kết hợp với nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự giác, góp phần tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ; quản lý chặt chẽ đảng viên. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; nghiêm cấm hiện tượng trấn áp, trù dập người phê bình cũng như hiện tượng lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ.Mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết thống nhất trong Đảng phải bị xử lý triệt để. Chú trọng công tác cán bộ, vì đây là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng. Triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả.

Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng, bảo đảm mọi đảng viên có quyền được thông tin, tranh luận, quyền được bảo lưu ý kiến trong tổ chức, nhưng khi đã thành nghị quyết thì phải nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng. Đồng thời các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ của tập thể, có cơ chế nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia giám sát Đảng, tham gia vào công việc của Đảng, khắc phục đi phần nào lối làm việc quan liêu, xa dân. Từ đó mà thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân.

Đảng đã và đang hoàn thiện quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Có sự kết hợp giữa giám sát trong Đảng với giám sát của nhà nước và giám sát của nhân dân. Để đạt được hiệu quả tốt nhất thì Đảng cũng đã tiến hành xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách, quyết định lớn của Đảng và tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.

          Ba là, Đảng ta nhận định cán bộ phải là người có đức, có tài, có những phẩm chất chính trị tốt và tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; không dao động trước mọi biến cố phức tạp, có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.

Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, có chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng, nhất là chú ý đào tạo cán bộ nữ, các cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực, bồi dưỡng nhân tài theo định hướng quy hoạch. Đặc biệt là quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cao. Mặt khác, Đảng cũng chú trọng đổi mới công tác cán bộ thật sự dân chủ, khoa học và công minh. Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn. Đồng thời, Đảng ta cũng thấy được rằng phải có chính sách bảo đảm phát hiện, tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng đối với những người có đức, có tài, thay thế những người kém năng lực, không đủ uy tín, nhất là những người kém phẩm chất, hư hỏng và có khuyết điểm nghiêm trọng, kiên quyết khắc phục những biểu hiện cá nhân độc đoán, thiếu công tâm và khách quan, cũng như tình trạng nể nang tùy tiện, trì trệ trong công tác cán bộ. Thực hiện cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII  về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm làm tăng hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức thi tuyển các chức danh lãnh đạo.

          Bốn là, việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng phải đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng ta nhận định “khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa phương”. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, các nghị quyết, quyết định và nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng đại, lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của nhà nước. Xây dựng một nhà nước thật sự trong sạch và vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, bố trí đúng cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.

Đảng không được buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay nhà nước; trái lại phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động sáng tạo của nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội. Đảng phải “khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với nhà nước” trong từng lĩnh vực như: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đặc biệt là việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong cả hệ thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, “khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ”.

 Trong điều kiện Đảng cầm quyền, có Nhà nước pháp quyền XHCN, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tiếp tục xác định rõ nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải có thực quyền, không chuyên quyền, độc đoán, nhưng cũng không rơi vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân.

          Năm là, việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có vai trò quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên chủ nghiã xã hội với mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và của chính thời đại, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền và tổ chức lãnh đạo duy nhất, Đảng phải thật trong sạch, đoàn kết và có khăng khít máu thịt với nhân dân. Nhất là trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên con đường CNXH, Đảng ta đã chủ động, sáng tạo và thành công trong đổi mới đường lối phát triển kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Để xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, Đảng phải thường xuyên tiến hành tự kiểm điểm, để từ đó thấy được những khuyết điểm của chính bản thân Đảng ta, đặc biệt là việc phòng chống tham nhũng. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”. Để có thể xây dựng Đảng vững mạnh thì đội ngũ đảng viên phải trong sạch, phải thưỡng xuyên tiến hành tự kiểm điểm bản thân, và tự kiểm điểm chính trong nội bộ Đảng. Việc tự kiểm điểm phải được thực hiện từ chính mỗi đảng viên cho đến các cấp cao hơn, và phải được thực hiện một cách thường xuyên thì từ đó mới đạt được hiệu quả. Đó chính là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng…”. Việc thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng là tất yếu, cả hai đều như nhau, để thực hiện quyết tâm phấn đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho Đảng ta ngày càng xứng đáng là một Đảng đạo đức và văn minh.

  Tóm lại: Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam vào công cuộc đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thu được kết quả to lớn góp phần xây dựng toàn Đảng và các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đội ngũ đảng viên đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bên cạnh đó, vấn đề này đôi lúc, đôi nơi còn được thực hiện một cách hình thức, mang tính chiếu lệ. Do vậy nhiều nơi đã xuất hiện những tổ chức đảng yếu kém, tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một “bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên” đã đến mức báo động như khẳng định tại Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”. Với thành tựu khoa  học và công nghệ phát triển như vũ bảo kèm theo nhiều công nghệ thông tin trên mạng nói xấu, xuyên tạc quan điểm đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách vô nguyên tắc. Do đó, cần phải truyên truyền, vận động làm cho dân tin, quần chúng nhân dân đối với Đảng như “nước với cá” là nguyên tắc sống còn của Đảng, bảo vệ Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là bảo vệ bản thân mình, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam  trong thời kỳ hội nhập và phát triển.          TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (chủ biên): Hỏi và đáp môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011

2. Nguyễn Đức Ánh, Học thuyết Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng cộng sản, Nxb CTQG, HN, năm 2010.

3. Ban Tuyên giáo Trung ương, Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN,  năm 2009.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính Trị Quốc Gia, HN, năm 1998.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2017.

7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

8. Song Thành, Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, HN, năm 2005.

 

Họ và tên Tên: Thái Quảng Thanh



[1] . Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, tr.30.

[2].  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.325.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t5, tr.301.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập83
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm80
  • Hôm nay4,920
  • Tháng hiện tại142,744
  • Tổng lượt truy cập8,914,791
gopyduthaovanban
tracuuquyche
tacuudetai
 
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây